Bất Khuất
Nguyễn Đức Thuận
www.dtv-ebook.com

Về Với Đảng, Về Với Dân

Lật Dương Văn Minh, lên làm thủ tướng Nguyễn Khánh cần có những trò lừa bịp nhân dân, nên đã thả một số tù chính trị. Ba đồng chí Thuận, Bình, Một được trả tự do trong dịp này, và đã được đồng bào giúp đỡ đưa đường...

... Lên xe, tôi ngồi ở ngay sau lưng bác tài, thay luôn quần áo. Giấu bộ bà ba đen đang mặc vào gầm ghế, mặc một cái quần kaki và một áo sơ-mi trắng vào. Chân xỏ dép lê. Lâu ngày không đi giày dép, bây giờ xỏ vào cứ muốn văng ra.

Xe chạy một quãng, tới một ngõ hẻm, chúng tôi xuống xe, người cùng đi dìu tôi chừng chục bước, lại gọi một xe tắcxi khác. Thay xe bốn bận như vậy thì đến nơi. Vào một ngôi nhà ở phố... Vợ chồng chủ nhà đi làm vắng, chỉ có hai cháu nhỏ, một gái độ mười hai tuổi và một trai độ chín tuổi đang thơ thẩn chơi đánh chuyền.

Tôi ngồi nghỉ trên ghế. Căn nhà yên tĩnh, tiếng đồng hồ tích tắc đều đặn ở trong buồng. Và sau bảy, tám năm trời, lần đầu tiên tôi được bưng một chén trà nghi ngút khói, hương thơm phả vào mặt mà không phải nghĩ ngợi đối phó gì...

Cháu gái đứng ở góc tường nhìn tôi một lúc và từ từ đi tới nói khẽ: "Chú ơi chú, chú khổ quá, chú ơi". Hai mắt cháu đỏ hoe và nước mắt chảy ra giàn giụa. Tôi cảm động hết sức, quàng lấy vai cháu, vỗ về: "Thôi, cháu đừng khóc, cháu, có khổ rồi có sướng chứ cháu... Lau nước mắt đi cháu...".

Cháu trai cũng đã đến bên tôi, ngước mắt nhìn tôi:

- Chú ơi, chú cho cháu đi theo với nhá!

Tôi cười, xoa đầu cháu. Cháu tự nhiên chạy vùng đi:

- Con có cái này cho chú coi nhé, cho chú coi cái này nhé...

Cháu mang ra một tập tranh do chính tay cháu vẽ. Thằng nhỏ rất có hoa tay, vẽ khéo thật. Phần lớn là tranh châm biếm vẽ Mỹ và Diệm, Khánh. Có một số tranh vẽ Quân giải phóng xung phong, lưỡi lê tô chì đỏ lòe. Cháu cười bảo tôi: "Hì, máu chúng nó đấy, máu Mỹ đấy...!".

Thằng nhỏ khoe tranh xong leo ngay lên đùi tôi và câu chuyện chuyển sang chuyện vệ tinh nhân tạo của Liên Xô và của Mỹ. Thằng nhỏ nói vanh vách các thứ về tên lửa, vệ tinh, vũ trụ... Thú thật rằng nghe thằng nhỏ nói tôi học thêm được vô khối điều, mặc dù năm 1956, nằm ở xà lim Pêcarăngđơ, tôi đã lần mò được cuốn "Những khái niệm về thượng tầng không gian", đọc hiểu một số kiến thức về môn khoa học mới mẻ này. Tôi nghe thằng nhỏ mà phục lăn. Tôi nghĩ thầm: "Một thằng nhỏ ở Sài Gòn còn thế này thì chắc ở vùng giải phóng phải thế nào nữa!".

Thằng nhỏ hết lời ca ngợi vệ tinh nhân tạo Liên Xô, hết lời chửi vệ tinh của Mỹ. Nó nói: "Liên Xô một cây! (15)"Mỹ còn thua xa, tên lửa của nó không mạnh bằng tên lửa Liên Xô, chú ạ!".

-----

(15) Một cây, tiếng hay dùng ở Sài Gòn hiện nay, có nghĩa hạng nhất, tài giỏi.

Hơn một ngày sống trong gia đình này, đúng là sống trong lòng yêu thương của nhân dân. Tôi không bao giờ quên được hai vợ chồng ông Y và hai cháu bé nọ. Tôi đã thấy lại cái đầm ấm của cuộc sống chân chính, tôi đã thấy lại cái quan hệ thật sự giữa người với người, sau tám năm trời ròng rã xa Đảng, xa nhân dân.

Ngày mồng 1 tháng 5, tôi đến chỗ hẹn gặp anh Bình. Hôm nay ra phố, tôi đã nghiễm nhiên là một người dân Sài Gòn chính cống. Ngồi trên xe tắc xi, nhìn những phố xá quen thuộc, lòng tôi nao nao. Những kỷ niệm, những niềm xúc động dồn dập tới... Đây, chỗ này năm nào tôi gặp anh V. Hôm ấy trời đổ mưa rất to, chúng tôi phải tránh dưới cái mái hiên của cửa hiệu tạp hóa TH gần đấy. Còn góc phố này, cạnh cửa hiệu giải khát hẹp kia, tôi "móc" anh A. Nghe nói anh A đã hy sinh ở trong tù rồi. Lạ thật, nhìn lại những chỗ này, tôi tưởng đâu mới vừa gặp anh V, anh A hôm qua, hôm kia vậy. Cũng cái đám đông xuôi ngược, chen lấn ồn ào này, cũng mấy chú bé bán kem đang xô đẩy nhau đùa trên hè thế này... Tôi như còn nghe rõ cả tiếng cười của anh A, nghe rõ cả tiếng mưa rơi trên mái hiên tôn và rõ cả những bong bóng mưa lềnh bềnh ở lòng cống ngập nước có những chiếc thuyền giấy trẻ con thả chơi, những quả dầu du đưa trôi, ngập ngừng... Kìa, ngôi nhà cơ sở tôi ở trước khi bị bắt... Lần cuối cùng tôi thấy nó là cái đêm 29 tháng 7, bọn Pêcarăngđơ đưa tôi đến tiệm Quốc dân... Người chủ nhà ngồi hóng mát ở ghế đầu ngoài hè, mấy đứa con nô bên cạnh... Bây giờ ngôi nhà này lạnh ngắt, tiêu điều. Anh ấy đâu? Các cháu đâu? Bị bắt? Hay là chết? Tôi muốn ngó lại mãi ngôi nhà. Trong mấy năm qua, gia đình anh chắc đã gặp phải rất nhiều đau thương cũng như hàng nghìn, hàng vạn gia đình khác ở miền Nam này.

Xe vẫn chạy. Phố phường vẫn diễn ra trước mắt tôi. Một cái xe Mỹ lao tới, cẩn thận kìa, tránh. Cái thằng Mỹ mặt dài ngoẵng đội mũ calô lái rất ẩu. Bác tài lắc đầu....

Sài Gòn ngày nay làm ăn khó khăn, nghèo nàn hơn Sài Gòn trước, đến bây giờ tôi khẳng định điều nhận xét đó. Người đi làm thấy phờ phạc và quần áo phần nhiều nhàu nát, ố bẩn. Các bà buôn thúng bán bưng chỉ thấy gánh đi dễu dện, không thấy đặt hàng xuống bán... Những gánh hàng thất thểu giạt từ hè phố này sang hè phố khác để rồi chốc nữa lại giạt trở về, thất thểu, ế ẩm. Những biển quảng cáo bằng đèn nêông nhiều màu la liệt. Hình đùi đàn bà không có thứ gì che, hình lưng đàn bà để hở, hình ngực đàn bà hớ hênh... Đấy nội dung của các biển quảng cáo... Xe lượn một cái khá ngoặt, nghiêng đi. Tránh một đống rác ở đầu ngõ. Mỗi đầu ngõ hẻm, một đống rác lù lù. Cái cảnh bình thường này, gần như một bộ phận không thể thiếu của Sài Gòn, chẳng khác những bục cảnh sát chỉ đường. Những đống rác tú ụ, mỗi khi xe chạy qua, ruồi bay cất lên từng đàn a a, đen ngòm cả cửa kính. Chiếc xe tắc xi tôi đi từ nãy đã đè phải mấy cái bọc giấy. Mỗi bận bác tài lại lạu bạu chửi khẽ ở trong mồm và những người đi đường ù té nhảy vội lên hè. Thì ra xe đè phải các bọc cứt. Cứt phọt bắn ra tung toé, lên cả xe. Sài Gòn rất nhiều nhà không có cầu tiêu. Cách tốt nhất là gói vào giấy quẳng ra đường làm của công cộng. Thảo nào, khi ở dưới tàu há mồm, anh em lao 2 dặn đi dặn lại chúng tôi: "Về Sài Gòn, các anh đi đường mà thấy gói giấy, bọc giấy thì chớ có nhặt. Nhặt là rầy đấy. Một là gói cứt, hai là bọc trẻ đẻ hoang người ta vất đi, đường phố Sài Gòn giờ nhan nhản hai thứ vô chủ ấy!".

Thêm nhiều ngôi nhà năm sáu tầng thật. Nhưng có điều tôi nhận thấy ngay: không có những nhà đang xây, những nhà mới xây,... Hà, việc xây nhà cửa ra cũng theo thời cuộc! Bây giờ rối ren hơn, ít ai dám xây nhà, không như những năm 1954, 1955 trước.

Đến chỗ này, xe hơi cắm cờ Mỹ chạy như điên. Chúng phóng bạt tê, vỏ rượu ở trong xe lẳng ra ngoài lăn long lóc... Trên sân thượng một tòa nhà bốn tầng, mấy người Mỹ, đàn ông, đàn bà, trẻ con đứng ngó xuống. Tôi bất giác nhớ đến tên Mỹ trẻ, đeo kính trắng đứng trong chuồng cu tàu há mồm nhìn xuống đám tù chúng tôi năm nào. Tôi lẩm bẩm: "Hừ, quân xâm lược vào khá đông rồi!". Tôi vội chột dạ liếc nhìn bác tài. Bác ta có nghe thấy không? Bác ta đang mải tránh một xe hiến binh Mỹ lồng lên chồm chồm ở giữa lòng đường. Không có chút thiện cảm nào đối với bọn Mỹ trong con mắt của bác ta cả.

Hôm ấy, tôi và anh Bình gặp nhau. Ngày mai chúng tôi lên đường ra vùng giải phóng. Ngày mai bao nhiêu? Ngày mai, mồng 2 tháng 5...

***

Trời còn sớm, tôi đã chia tay vợ chồng ông Y. Hai cháu nhỏ còn đang ngủ ngon, tôi vuốt tóc hai cháu đi ra cửa. Xe đã đến đón tôi và đang đậu ở ngoài kia. Hai anh Bình và Một ngồi chễm chệ trên xe rồi.

Vừa tới cửa, tôi dừng ngay lại. Một tiếng nổ rất to đinh tai làm cho ngôi nhà đung đưa. Các cánh cửa rung lên và kính kêu lanh canh một lúc lâu. Ông Y nói với theo tôi:

- Lại có thằng Mỹ về chầu ông vải!

Chiếc xe du lịch khá sang đưa chúng tôi ra "xa lộ" Biên Hòa. Ở tù, tôi đã nghe nói đến cái sân bay phản lực trá hình này đây. Không biết hình thù nó ra sao? Một vùng đất rộng và phẳng lì trải ra trước mắt. Ấn tượng trước tiên là thấy một sân bay. Rồi sau mới lại thấy là đường. Người lái xe bảo chúng tôi: "Biết bao gia đình, biết bao chùa chiền tan nát ở đây, các bác ạ, rồi còn biết bao người tù đày, máu chảy đầu rơi ở đây nữa chứ!...". Tôi ngồi thần ra, nhìn con đường giết người, con đường uống máu người này. Đâu rồi những phố cũ, đâu rồi những dãy nhà hai bên đường này? Và đâu nữa, núi Châu Thới? Núi Châu Thới bị bạt gần hết rồi. Chúng lấy đá núi làm "xa lộ"... Hai bên "xa lộ" trống không, hiu quạnh. Im lìm, chỉ có tiếng bánh xe lăn.

Chúng tôi lại vòng trở lại. Tới một chỗ hẹn khác rồi lại đi. Người lái xe luôn tay chỉ cho chúng tôi xem những căn cứ của Mỹ. Đây căn cứ Mỹ, kia căn cứ Mỹ. Đó, dãy nhà trắng tinh đó, căn cứ Mỹ...; kia, đoàn xe đậu ở chỗ quành ngã ba kia là xe của phái đoàn Mỹ... Hết căn cứ Mỹ lại "ấp chiến lược". Những tấm biển sơn kẻ chữ cắm bên đường "Ấp chiến lược số 7", "Ấp chiến lược số 3", "Ấp chiến lược số 69"... "Ấp chiến lược" khác nhau chỉ ở con số, còn giống nhau như đúc ra từ một khuôn. Một con hào rộng mươi thước ngập nước, những hàng dây thép gai rất dày, sau đó một bờ con chạch tua tủa chông gai và nhọn hoắt... Sau bờ con chạch cắm chông lại một con hào ngập nước. Trong cùng là những mái nhà lụp xụp, chen chúc dưới mấy chòi canh. Rất ít bóng người. Loáng thoáng mấy đứa trẻ lê la chơi ở đừng sau rào chông, bụng ỏng đít vòi, mặt gầy xơ xác.

Xe cứ chạy, cứ chạy. Chúng tôi thức lại ngủ, thức lại ngủ. Đường càng xa Sài Gòn, tôi càng thấy lòng tràn ngập một niềm vui sướng khó tả, một niềm vui sướng bát ngát. Nhiều lúc ngồi trong xe nhìn bọn chúng ngó chúng tôi, tôi tưởng đâu như tôi đang ở trong một cơn mơ. Mới chỉ ngày nào chúng tôi bò ra nhặt từng hột cơm ở bậc cửa chuồng cọp cáu cứt đái, mới chỉ ngày nào chúng tôi run cầm cập, rên lên vì rét sau một trận xối nước nửa đêm, mới chỉ ngày nào chúng tôi thèm một khoảng trời hẹp...

Xe chạy chậm dần và dừng lại. Chúng tôi xuống xe, bắt tay chào người lái và đi sâu vào bên trong đường. Chiếc xe phóng nhanh, biến sau lớp bụi mù mịt.

Chúng tôi dời đường cái chừng hơn một trăm mét thì trời nhòa tối. Và bên tai tôi vang lên tiếng nói quen thuộc của đài phát thanh Hà Nội. Đài phát thanh Hà Nội đang báo tin Quân giải phóng đánh đắm hàng không mẫu hạm Cađơ ở bến Sài Gòn. Thảo nào! Tiếng nổ sáng sớm hôm nay, tiếng nổ lúc sớm hôm nay là tiếng nổ đánh tàu Cađơ đấy!

Chung quanh tôi ran ran tiếng đài phát thanh Hà Nội. Đài mở tứ phía, nhiều quá, oang oang, thủ thỉ, đủ cỡ... Bầu trời đầy sao, ngày mai lại nắng. Hà Nội lúc này chắc trời cũng thế này. Tôi nhìn rõ mắt con vịt lóng lánh, nghịch ngợm cạnh ông Thần Nông. Trời rộng quá...

Chúng tôi vào một căn nhà. Và sau bữa cháo gà, chủ khách bắt đầu chuyện trò vui vẻ. Bà con chỉ ra

đầu xóm:

- Cái đồn kia, các bác thấy không, đó, cái đống tùm lum đó, dài thiệt là dài đó, đồn chúng nó đó...

- Chà, cái đồn lớn thiệt, bao xa?

- Gì mà bao xa, nè, bây giờ chúng tôi yêu cầu nhổ nó là nhổ phăng thôi, nếu bộ đội giải phóng quyết nhổ thì khó mấy nhổ cũng được.

Chúng tôi có nhiều cái tỏ ra bỡ ngỡ đến ngớ ngẩn. Chúng tôi hỏi:

- Gần nó sao đài mở nhiều và to vậy?

Bà con chưa hiểu ngay, một lúc mới cười phá lên:

- Ủa, thì đêm là của mình chớ sao! Tụi nó nghe rõ mồn một đó, nhưng sớm mai tụi nó cũng phải coi như không có nghe thấy cái gì hết, cứ lờ tuốt đi thôi... Vô nơi chúng tôi đâu có dễ, mấy bác...

Nói chuyện được một lúc, ở bên ngoài bước vào một người con trai, quần âu, áo sơ-mi, hai con mắt tươi cười, lanh lẹn.

- Các bác đi đường mệt không, các bác? Người này hỏi, vồn vã.

Người chủ nhà giới thiệu:

- Bí thơ chi bộ!

Tôi ngồi lặng đi, không ngờ. Tôi xúc động vô cùng. Tám năm trời nay mới lại thấy đồng chí bí thư chi bộ xã.

Vùng này là vùng tôi rất quen thuộc. Tôi hoạt động ở đây từ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, ở đây tôi đã từng ăn dầm nằm dề với đồng bào hàng tháng trời liền. Tôi đã kết nạp từng người đảng viên ở đây, tôi đã tổ chức từng chi bộ ở đây. Đồng bào vùng ở đây không mấy ai lạ tôi... Lúc nãy, ở xe vào, tôi đinh ninh sẽ gặp lại các đồng chí cũ. Các đồng chí chắc vẫn bộ bà ba đen, vẫn cái túi nhái xách tay, khác chăng là ở mái đầu hẳn phải bạc trắng như tôi rồi mà thôi. Nhưng các đồng chí thảy đều không còn nữa! Người tù đày, người mất tích, người hy sinh... Không một ai thuộc lớp trước còn lại! Tôi hỏi mấy người: "Có biết ai là Nguyễn Đức Thuận không?". Anh em nhìn nhau:

- Nguyễn Đức Thuận, Nguyễn Đức Thuận nào, hổng có nghe!

Chúng ta đã hy sinh nhiều trong cuộc đấu tranh sống mái với quân thù. Những người làm cuộc kháng chiến lần thứ nhất đã ngã xuống gần hết. Những lớp trẻ mới lên của chúng ta tỏ ra vô cùng xứng đáng với lớp đàn anh, đã tỏ ra có nhiều năng lực hơn lớp đàn anh nữa.

Đồng chí bí thư chi bộ mới khoảng hai mươi bốn, hai mươi lăm tuổi. Trong kháng chiến chống Pháp, đồng chí là chú thiếu niên, bây giờ chú thiếu niên ấy lãnh đạo cả một địa bàn du kích ở ngay bên sát địch thế này... Qua chuyện trò trao đổi, tôi rất mừng thấy đồng chí bí thư chi bộ bây giờ có trình độ của người huyện ủy viên trước. Đảng ta đã trưởng thành mau chóng!

Lưu lại chỗ này ít bữa, chúng tôi lại lên đường. Cùng đi với chúng tôi chặng này là một đơn vị du kích địa phương vừa mới phá xong một "ấp chiến lược" nay trở về căn cứ nhận luôn nhiệm vụ bảo vệ chúng tôi.

Địa phương tôi đến hôm nay cũng là nơi tôi hoạt động trước. Cũng lại những người quen xưa không còn nữa! Người tù đày, người mất tích, người hy sinh... Cũng lại lớp trẻ mới lên đầy triển vọng, tháo vát, thành thạo, lạc quan, táo bạo... Nghe giới thiệu tình hình địa phương, tôi thấy rõ bây giờ địa phương này đã lớn mạnh lên rất nhiều. Mọi mặt tổ chức, trang bị đều hơn ngày trước. Khí thế của nhân dân cũng đều, cũng vững hơn.

Tôi cố nói với anh em dìu tôi đi ngang qua một con đường đá xanh tôi thường tới lui trong thời kỳ kháng chiến trước. Lúc bấy giờ đường đào chữ chi, cầu cống phá sập hết. Nay hố đã lấp, nhưng cỏ mọc ngập đầu, một lối mòn ngoằn ngoèo ở giữa: địch đã từ lâu không dám bén mảng tới đây. Tôi len lỏi giữa đám cỏ rậm, lòng bâng khuâng. Nếu anh em không nói thì tôi không thể nhận ra đây là con đường quen thuộc. Còn một chút giống ngày xưa là cảnh hoang tàn bên đường. Những túp nhà bị thiêu đổ rụi, những lá cây táp lửa khô cong, những cột nhà cháy xém, những chum khạp vỡ...

Lại đi. Đến một vùng tôi cũng đã từng hoạt động. Ở đây, đã một bận tôi suýt chết trong một trận giặc Pháp càn. Hôm nay, tôi đến đây lại vào lúc địch vừa tới bố (16)và bị đánh thua chạy. Lúc còn cách mấy kilômét, chúng tôi đã nghe thấy tiếng súng nổ ran ở mạn này. Và bây giờ máu lênh láng trên đường hãy còn đó. Anh em chỉ những vũng máu: "Đây chúng nó chết ba đứa...", "Chỗ này nó chết một thằng thiếu úy!". Hình như phảng phất còn mùi thuốc súng và mùi quần áo nhà binh.

-----

(16) Ruồng bố càn quét.

Bất giác tôi ngẩng nhìn trời. Trời xanh lồng lộng, êm đềm mấy cụm mây bông. Đất nước này dẹp xong bọn cướp nước và bán nước thì tươi đẹp biết bao nhiêu!

Đi một quãng nữa, chúng tôi lọt vào giữa một dòng người đông nghịt. Ai cũng xẻng cuốc trong tay và ai cũng cười đùa rất nhộn. Đồng bào các vùng quanh đây đi phá đường. Nhìn những nét mặt tươi tắn, tôi cảm thấy hình như bà con tự động rủ nhau đi làm công việc phá đường này. Một cái gì thoải mái, vui vẻ, hồn nhiên trong con mắt, nụ cười, dáng đi của bà con. Cái cuốc, cái xẻng cũng có vẻ tênh tênh. Một toán con gái chân tay không, bước xăm xăm, vượt lên trên chúng tôi.

- Phá đường sao không mang xẻng cuốc, các cô? Chúng tôi hỏi.

- Hổng phá, hổng phá!

- Vậy đi đâu?

- Tòng quân, chúng em đi tòng quân đây!

Tôi nhìn theo toán nữ thanh niên, lạ lùng: "Hình ảnh này ngày xưa đâu có!".

Chúng tôi đến gần địa điểm cuối cùng. Một cổng chào cao có hàng chữ ở trên đỉnh: "Mỹ vào đây thì Mỹ chết ở đây!".

Sau cổng chào, men theo con đường làng một lúc thì đến trạm thông tin. Ảnh, báo, tài liệu... Một lá cờ treo trên tường: ngôi sao vàng trên nền đỏ và xanh. Cờ Mặt trận! Không ai bảo ai, chúng tôi cùng bước cả vào và đến bên lá cờ. Tôi bồi hồi nói khẽ:

- Chiến đấu bao nhiêu năm cho đường lối của Mặt trận, bây giờ mới được thấy lá cờ đây!

Trạm thông tin này, tôi nhớ, vẫn ở trên nền trạm thông tin ngày trước. Hồi ấy, mỗi lần về qua đây công tác, tôi thường tạt vào trạm thông tin chốc lát xem tranh tường.

Vào sâu hơn nữa, khung cảnh tàn phá hiện ra rõ hơn. Những lũy tre bị mảnh bom, mảnh đạn chặt đứt ngang mình, rạp xuống. Những hố bom và hố đạn đại bác rải rác. Và cánh đồng úa đỏ, không một cọng cỏ xanh. Chất độc hóa học đã ném xuống đây. Những khu vườn trắng xóa tro tàn nối tiếp nhau. Không hiểu chúng ném loại bom cháy gì mà tro toàn màu trắng xám. Những túp lều nhỏ xíu ẩn hiện dưới những lùm cây. Nhìn bên ngoài, tưởng đâu tàn tạ lắm nhưng bước vào trong nhà, một cảnh sinh hoạt bình thản, vui ấm, đập ngay vào mắt. Tiếng võng kẽo kẹt, bài ru em véo von, đứa bé bế em ngừng đạp võng nhìn khách lạ và nhoẻn cười... Cây đàn sáu dây, phím lõm treo trên tường. Một bộ tulơkhơ, mấy cuốn sách in đá, mấy trái dừa cạnh một lưỡi mác và ba ổ gà đang ấp... Tối tối, những túp lều đó đỏ đèn và tiếng thanh niên nam nữ ơi ới gọi nhau đi học, đi họp vang rất xa... Đài lại ran ran khắp xa gần, đài mở ở bốn bề, mở cho đến câu tận cùng của bài Tiến quân ca...

Cái gì đối với tôi cũng hết sức lạ. Từ túp lều nhỏ xíu nọ đến những đường hầm ngang dọc; từ người bí thư chi bộ trẻ tuổi đến anh chiến sĩ Giải phóng đội mũ vải cài lá ngụy trang, đeo tiểu liên; từ tiếng đài oang oang trong đêm tối đến dòng khẩu hiệu vắng ngang đường... tất cả đối với tôi đều mới mẻ và lạ thay, lại gần gũi, thân yêu vô cùng. Tôi bỡ ngỡ nhìn, xem, nghe, hỏi. Tôi y hệt một người ở một vùng quê hẻo lánh lần đầu tiên ra chốn thị thành...

Chỉ mới hơn mười ngày, hình ảnh Côn Đảo đã lùi rất xa vào dĩ vãng, còn chăng chỉ là đôi chân vẫn tập tễnh, chưa khỏi liệt. Còn chăng chỉ là những giây phút bàng hoàng sực nhớ rằng mình vừa ở trong cõi chết đi ra. Còn chăng chỉ là nỗi uất hận xen với những chua cay thỉnh thoảng lại trào lên ở trong lòng...

Tâm trí tôi mải chìm đắm trong những suy nghĩ mới. Lòng dạ xốn xang trước những cảnh cũ mà lạ, trước những người xưa mà mới, trước những bước đi đầy kỳ thú của tôi trong vùng du kích.

Gặp các đồng chí phụ trách, tôi biết nói gì đây? Ôi chao, lòng tôi khác nào nổi sóng. Cha mẹ sinh ra tôi, đó là lần thứ nhất tôi ra đời. Năm 1945, Cách mạng thành công, đó là lần thứ nhất tôi sống lại. Lần này, Đảng và nhân dân giải phóng tôi ra khỏi cái chết, tôi sống lại lần thứ hai.

Tôi đã sống vì tôi đã làm theo yêu cầu của Đảng: chiến đấu và chiến thắng!

***

Khi tôi ôm chầm lấy đồng chí thay mặt cấp ủy, nghe tiếng nói quen thân ngay sát bên tai: "Tưởng không bao giờ còn gặp lại anh...", tôi thấy người tôi rạo rực không sao tả xiết. Tôi nghẹn ngào:

- Đảng và nhân dân đã tái sinh tôi!

Cùng lúc ấy, tôi tự nhủ: "Chớ khóc, chớ có khóc, nghe!". Và mắt tôi cứ chớp hoài, chớp hoài.

Chao, nếu lúc này tôi khóc được thật to.

6-1966