Bất Khuất
Nguyễn Đức Thuận
www.dtv-ebook.com

Một Bài Học Lớn Về Đạo Lý Làm Người Của Người Cách Mạng

Theo dõi bước chân Nguyễn Đức Thuận trên từng trang, từng trang BẤT KHUẤT, người đọc nhiều lúc nín thở, hồi hộp, xúc động đến trào nước mắt, trái tim căng lên, sôi sục máu căm thù. Nguyễn Đức Thuận dẫn chúng ta đi theo anh trên con đường đầy đau thương, khổ ải, trong hơn ba ngàn ngày, trải qua những lò giết người cực kỳ man rợ, man rợ hơn cả bọn đao phủ thời Trung cổ, hơn cả bọn phát xít Hítle.

 Qua gần ba nghìn cửa ải, từ Pêcarăngđơ, nhà lao Gia Định, trung tâm Thủ Đức, Tổng nha đến Côn Đảo, sa vào những chuồng cọp, địa ngục trần gian đầy rẫy ác ôn quỷ dữ là tập đoàn đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai mổ bụng ăn gan, uống máu người không biết tanh, Nguyễn Đức Thuận cùng với biết bao nhiêu chiến sĩ cộng sản kiên cường, biết bao nhiêu người Việt Nam yêu nước, đã đối mặt với quân thù, chống chào cờ ba que, chống học tập "tố cộng", chống "ly khai" tới cùng. Tám năm trời đằng đẵng, ba ngàn ngày mà mỗi phút, mỗi giây, mạng người bị treo bằng một sợi tóc mong manh, chơi vơi trên một vực thẳm kinh hồn. Hơn một ngàn đồng bào đồng chí chúng ta đã hy sinh. Nhưng Nguyễn Đức Thuận và những con người kiên cường như anh vẫn đứng vững trong chuồng cọp, đánh bại lũ diêm vương quỷ sứ, đẩy lùi bàn tay thần chết, bắt lũ chúng phải quỳ lạy dưới chân mình.

 Mỗi trang BẤT KHUẤT là một trang thấm máu và nước mắt, tràn đầy một sức sống mãnh liệt, vang lên tiếng hát yêu đời, yêu cuộc sống, yêu con người, vang lên bài ca chiến thắng không bao giờ tắt. Với trên bốn trăm trang hồi ký, Nguyễn Đức Thuận đã phản ánh sâu sắc cuộc sống anh hùng với tinh thần cách mạng tiến công của những con người có thực, vạch trần hiện thực đen tối trong những địa ngục của xã hội miền Nam dưới gót sắt của một lũ sói lang mặt người dạ thú. BẤT KHUẤT tỏa ra một niềm tin bất diệt vào sự nghiệp cách mạng, vào lý tưởng cộng sản chủ nghĩa giải phóng con người, nêu cao phẩm giá của những con người nhận thức được quy luật và chân giá trị cuộc sống, biết sống và biết chết xứng đáng là Người.

I. THÀ CHẾT TỰ DO CÒN HƠN SỐNG NÔ LỆ (1)

-----

(1) Những đề mục này là của chúng tôi (NXBGD)

 Từ xưa đến nay, sống và chết vẫn là vấn đề nóng hổi được đặt ra ở bất kỳ một thời đại nào, một dân tộc nào. Sống sao cho ra sống, chết sao cho ra chết, bởi vì người ta sống chỉ có một lần, chết cũng chỉ có một lần mà thôi. Thực ra, nào ai ở trên đời này lại thích chết. Tất cả mọi người đều muốn sống tự do và có hạnh phúc. Nhưng tham sống sợ chết không phải là lẽ thường của mọi người, mà chỉ là tâm lý chung của những phường giá áo túi cơm, của những kẻ sống cho thể xác, sống cho bản năng động vật của mình. Họ sợ cái chết của thể xác mà đành để mặc tâm hồn chết mãi mãi trong im lặng, trong cô đơn, trong vô nghĩa, hoặc trong sự cầm tù.

 "Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả cứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ". "Không có gì quý hơn độc lập, tự do". Những lời kêu gọi đanh thép của Hồ Chủ tịch trong những ngày toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp trước kia và đối với những hành động xâm lược của đế quốc Mỹ ngày nay, đã nói lên chân lý về con đường sống và chết; chân lý đó được thể hiện ở những con người kiên cường trong BẤT KHUẤT.

 Phát huy đạo lý làm người của cha ông chúng ta, những người cộng sản, những người theo lý tưởng cộng sản, nhân dân cả nước ta từ Nam chí Bắc nhất định không chịu sống cúi đầu, quỳ gối, không chịu làm nô lệ sống kiếp ngựa trâu, vì đó không phải là lẽ sống, vì "đó là sự tồn tại vất vưởng không xứng đáng với con người" (Phu xích).

 Từ trong buổi bình minh của lịch sử nước ta, cậu bé làng Gióng vươn mình lên cao mười trượng đánh tan quân thù cướp nước rồi bay bổng lên trời, cho đến Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung, Trần Phú, Minh Khai, Hoàng Văn Thụ, Lý Tự Trọng, Võ Thị Sáu, Nguyễn Văn Trỗi v.v... vẫn mãi mãi sống trong lòng nhân dân. Nhân dân ta bao giờ cũng lạc quan, mơ ước và kiên quyết đấu tranh giành lấy một cuộc sống hạnh phúc, tự do; nếu có phải hy sinh thì nhân dân ta nhìn nhận cái chết vinh quang là một lẽ sống. Trần Bình Trọng đã mắng vào mặt quân thù xâm lược: "Tao thà làm ma nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc". Hoàng Văn Thụ trước giờ lên máy chém vẫn bình tĩnh và thanh thản với câu thơ bất diệt: "Ngọc nát còn hơn giữ ngói lành".

 Nguyễn Đức Thuận và các đồng chí, đồng bào yêu nước đã tiếp tục phát huy truyền thống về đạo lý làm người đó của nhân dân ta, nêu cao lẽ sống vì dân vì nước, vì hạnh phúc chung của mọi người. Khi bọn tay sai đế quốc Mỹ tìm đủ cách dọa nạt, tra tấn, phỉnh phờ anh: "Ông không "ly khai" thì tiếng hát, tiếng chào cờ, tiếng hô khẩu hiệu ở trại Hai hỏi có thêm được là bao? Cũng chỉ vang thêm một tí ti. Nhưng đối với bản thân ông thì lại là cả một vấn đề sống chết. Và đối với vợ con ông thì là cả một vấn đề hạnh phúc hay mồ côi góa bụa... Chết đi, ông còn gì nữa? Mất hết! Đảng nào biết cho ông? Vợ con nào biết cho ông? Ông để lại được gì cho vợ, cho con?". Anh đã trả lời dứt khoát: "Với chúng tôi, không phải chỉ có vấn đề sống chết và hạnh phúc cá nhân. Bên cạnh cái sống, cái chết và hạnh phúc cá nhân là những điều chúng tôi rất quý trọng - chính vì quý trọng mà chúng tôi làm cách mạng - chúng tôi còn có sự nghiệp cách mạng, còn có uy tín của Đảng, còn có lí tưởng cách mạng, còn có phẩm chất của con người mà chúng tôi coi cao hơn tất cả. Chúng tôi yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, do đó cuộc sống và cái chết của chúng tôi đều nhằm phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Tôi chết ở đây cũng như góp một viên gạch vào sự nghiệp giải phóng đất nước. Tôi làm tiếp truyền thống chống ngoại xâm của ông cha ta. Tôi chết đi là nối gót tiền nhân, nói gót các đồng chí của tôi...".

 Đúng như thế. "Có cái chết hóa thành bất tử" như Tố Hữu đã nói. Và cái chết của những con người kiên cường, dũng cảm như anh Tín, anh Hiếu, ông già Ngọc, anh Đại v.v... cùng với hàng ngàn hàng vạn đồng chí, đồng bào chúng ta ở Côn Đảo sẵn sàng đón lấy cái chết không chịu cúi đầu, đã trở thành bất tử, tiếp tục tấm gương hy sinh bất tử của cha ông chúng ta, của các mẹ, các chị, các bậc đàn anh cách mạng, đem lại thành quả cách mạng ngày nay. Những con người ấy đã ngã xuống mà vẫn không thể nào chết được, bởi vì:  Không thể chết những người dân yêu nước

 Bởi vì:  

Chúng đã giết, nhưng làm sao giết được

Hồn chúng tôi quẩn quanh cùng đất nước  

Như bóng dừa ôm những xóm làng yêu.

 (Tố Hữu)

 Và đã là con người với cái phẩm chất cao quý của loài người thì: "Thà chết tự do còn hơn sống nô lệ" (Lời Hồ Chủ tịch).

II. ĐẾ QUỐC MỸ VÀ BÈ LŨ TAY SAI HỦY DIỆT CUỘC SỐNG, HỦY DIỆT CON NGƯỜI

 Trái với chúng ta, chúng nó sợ chết, tranh cướp nhau, đâm chém nhau để mà sống, sống gấp, sống vội như những con thú vật. Nếu có cái chết của chúng ta hóa thành không chết, sống mãi mãi trong lòng mọi người, thì cái sống của chúng nó chẳng hơn gì cái chết. Chúng nó là ai? Là bọn đế quốc Mỹ xâm lược cùng với bè lũ tay sai đồ tể, ác ôn lớn bé từ Diệm, Nhu, Minh, Khánh, cho tới Thiệu, Kỳ, Hương, lúc nhúc một bầy mặt người dạ thú, chà đạp lên cuộc sống, hủy diệt con người.

 Bảo Đại làm cái nhà để chơi gái và đánh bạc ngay giữa Sở thú, thì ngày nay cũng cái "chuồng" đầy hành động thú tính ấy là cái Pêcarăngđơ, cái sào huyệt giết người lừng khắp miền Nam của bè lũ đế quốc Mỹ và tay sai. Đánh bạc giữa các con thú, chơi gái giữa các con thú, giết người giữa các con thú, âu cũng là một thói quen thú vật tất nhiên của tên trùm phong kiến trước kia và tên trùm đế quốc với bè lũ tay sai của nó ngày nay. Những khái niệm biệt thự, nhà thổ, nhà chứa, lò giết người, đối với bọn chúng chỉ là một, không có gì lạ.

 Ngay từ buổi đầu sa vào cạm bẫy của chúng, Nguyễn Đức Thuận đã bị những con người thú giở trò cướp giật. Chúng bắt anh cởi giày, tụt bít tất, tháo thắt lưng, đồng hồ, kính râm để chúng khám người anh; ngay trước mặt anh, những kẻ mệnh danh là "đại diện pháp luật" ấy đã trắng trợn thủ luôn mỗi đứa một thứ.

 Rồi từ đó trở đi, Pêcarăngđơ đến nhà lao Gia Định, trung tâm Thủ Đức, Tổng nha, Phú Lợi, Côn Đảo với lao Hai, lao Một, chuồng cọp, Nguyễn Đức Thuận đã lần lượt cho chúng ta gặp rất nhiều con người thú, "những con người mà phần thú vật thì suy nghĩ hành động mà phần người thì chỉ có ăn, hút, hưởng lạc". Chúng ta nhìn thấy rõ chân tướng của những "lon, mũ mãng, dây vàng, dây bạc oai vệ phủ lên các bộ mặt nhầy mỡ, các bộ ngực béo núc" với "những con mắt lơ láo cố tươi tỉnh nhưng vẫn đục ngầu những âm mưu và dã tâm". Với một vài nét, dưới ngòi bút của Nguyễn Đức Thuận, những con người thú hiện lên trong BẤT KHUẤT mỗi đứa mỗi vẻ.

 Chúng ta hãy điểm qua mặt chúng nó. Thằng Bạch Văn Bốn tỉnh trưởng Côn Sơn, tên ma vương Côn Đảo, bụng phệ, tay cầm can, gặp ai đánh nấy, sống như một vua con, "mọi quyền sinh sát trong tay nó, mọi thứ của cải ở Côn Đảo thuộc về nó. Khắp Côn Đảo, thứ gì ra tiền là vào túi nó. Xoài, nhãn, dứa, chuối, con tôm, cái tép, bông sen, hạt lúa cho chí bãi cứt bò đều là tài sản của nó. Chỗ nào cũng biển "cấm hái", "cấm ngắt", "cấm nhặt". Công chức của nó thò tay lấy cũng bị phạt, bị cúp lương. Một tên lính bảo an đã nói với tù: "Cục cứt chim cũng là của thiếu tá". Thằng Lê Văn Thể thay thằng Bốn cũng không kém. Khi nó về Sài Gòn, "đồ đạc của nó xếp chặt một phần ba tàu, rặt đồi mồi, sa lông mây và các thứ hòm gỗ, khiêng lên kìn kìn, đầy một góc sân vẫn chưa hết". Cả hai thằng ma vương này cũng không thua kém mấy tên côn đồ tay sai về mặt đánh người. Khi tính thú trào lên đến cổ thì chúng mất hết cả cái oai vệ của lon, áo, mũ mãng; chúng sùi bọt mép, đấm vào ngực thét, lù lù đứng ở cửa nhìn các người tù, bước nhẹn vào khám thộp ngay lấy ngực người tù và đấm liên hồi vào mặt, thúc mũi giầy nhọn vào ngực, lia gót giầy vào sau đầu... Có những thằng như thằng đại úy Năm lúc nào mồm cũng "đ. mẹ", báo cáo với tỉnh trưởng cũng "đ. mẹ", say rượu bí tỉ rồi vừa đánh người vô tội vạ vừa "đ. mẹ", "đ. mẹ" tuốt chẳng kiêng nể ai cả. Có thằng như thằng đại úy Giỏi làm ra bộ hiền từ, "bao giờ cũng hạ mũ, kính cẩn, hai tay khoanh trước ngực, cái mũ cặp nách, cúi đầu nghe anh em tố cáo chế độ nhà tù", "nó đứng im nghe mắt chớp chớp, ra vẻ vừa ăn năn, vừa ngạc nhiên", cố phỉnh phờ, bịp bợm, dụ dỗ. Có những thằng như thằng Thông, thằng Yên dạy nghề cho bọn tay sai, lấy tù làm bao cát cho chúng tập và đánh ra mẫu theo ngón Huê Kỳ. "Thằng thầy ra mẫu đánh người tù, thằng trò học ngón mới cũng đánh vào người tù, mỗi tối chúng dạy nhau như vậy phải mất vài ba người tù gãy xương hộc máu".

 Những con người thú khác cũng khoác áo làm chính trị, cũng màu mè tự xưng là "yêu nước", là "mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân" thì thế nào? Nguyễn Đức Thuận đã thuật lại cho chúng ta nghe một câu chuyện nhỏ bỉ ổi và nực cười: "Một hôm đã khuya, tôi chợt thấy khiêng một người vào. Người này khóc hu hu, rất to, rất thê thảm. Vừa khóc vừa nỉ non: "Vợ tôi còn thơ dại ở tận bên Pháp. Tôi bị vô đây, ai đỡ đần vợ tôi. Ông nào có thể giúp tôi báo tin cho vợ tôi được thì tôi xin đền ơn" - Hỏi ra mới biết người ấy là Bùi Lượng, chủ tịch Tổng công đoàn lao công". Chúng ta hãy nghe thằng Phan Trọng Chinh nói với anh Hoàng Minh Trí: "Anh Trí, anh có nhận rằng những người "quốc gia" chúng mình tồi không? Tồi lắm anh ạ! Lúc chưa bị bắt thì thế này, thế nọ, lúc bị bắt thì chưa ăn cái tát nào đã khai ra rông rổng. Như ông Đán ấy, khai ra có đến mấy trăm người... Khi vào tù thì làm đơn xin Diệm Nhu tha lỗi, xin được ra tù hợp tác với Diệm, Nhu đánh Việt cộng... bây giờ ra Côn Đảo lại làm đơn như thế nữa đấy, mười mấy người ký rồi..."

 Nói tóm lại, từ con người thú lớn đến con người thú nhỏ, từ cao cấp đến hạ cấp, cái triết lý sống của chúng nó chung quy chỉ là cái triết lý của chủ nghĩa "đớp". Những đứa hạ cấp thì nói toạc ngay ra: "Chẳng lý tưởng, chẳng Tổ quốc, chẳng đồng bào gì cả. Chỉ có "đớp". "Đớp" trên hết. "Đớp" muôn năm. Bọn cầm quyền ở Sài Gòn từ Diệm, Nhu đến Thiệu, Kỳ, Hương cũng chỉ có "đớp". Và đúng như Nguyễn Đức Thuận đã vạch trần: "có khác là khác ở chỗ chúng nó không nói thẳng ra, chúng chẳng khoác lên người chúng cái vỏ màu mè "quốc gia" và chúng toàn "đớp" đô la, "đớp" rất nhiều đô la mà thôi". Những thứ "chủ nghĩa nhân vị", "thuyết duy linh" chỉ là những thứ ngụy luận sặc mùi bùa mê tìm cách che đậy cho cái chiêu bài "quốc gia" giả hiệu, che đậy những khẩu hiệu ở lỗ mồm chúng về tự do, về dân chủ v.v... để "đớp". Cả bọn thầy chúng là những tên Giônsơn, Đin Rátxcơ, Mác Namara v.v... cũng vậy, nếu có khác là khác ở chỗ chúng "đớp" ở khắp nơi trên thế giới và âm mưu "đớp" của thằng thầy thâm độc hơn lũ trò. Nhưng dù cho có quỷ quyệt thâm độc đến mấy chăng nữa, chúng nó cũng chẳng lừa dối được ai. Bộ mặt thật của chúng càng lộ rõ nguyên hình.

 Chà đạp, giày xéo phẩm giá con người, hủy diệt con người, hủy diệt cuộc sống của người khác để giành lấy cuộc sống vật chất thú vật cho cá nhân mình, đó là mục đích của bọn trùm đế quốc Mỹ xâm lược và của bọn côn đồ, lưu manh, ác ôn lớn nhỏ tay sai cho chúng ở miền Nam nước ta, ở khắp nơi trên thế giới. Thông qua BẤT KHUẤT chúng ta thấy rõ mục đích đó, dã tâm đó.

III. MỤC ĐÍCH CỦA CHÚNG TA LÀ ĐẤU TRANH VÌ CUỘC SỐNG, VÌ CON NGƯỜI

Còn chúng ta, mục đích của chúng ta là đấu tranh vì cuộc sống, vì con người. Chúng ta cương quyết xóa bỏ mọi tình trạng áp bức bóc lột, giải phóng con người, đem lại cho loài người tự do và hạnh phúc toàn diện về mọi mặt vật chất và tinh thần. Vì mục đích ấy, chúng ta không bao giờ ngần ngại hy sinh lợi ích nhỏ bé của cá nhân mình để chiếm lấy bầu trời và trái đất cho những người lao động. Chúng ta "dám xả thân quên mình vì cách mạng" như đồng chí Lê Duẩn đã nói, để giải phóng con người khỏi những địa ngục âm u của chế độ độc tài áp bức và bóc lột.

 Nguyễn Đức Thuận và những đồng chí, đồng bào yêu nước trong BẤT KHUẤT, ngay từ lúc mới sa vào tay giặc, đã xác định rõ cho mình mục đích và lập trường như thế, vì cuộc sống, vì con người. Trước những dụ dỗ mua chuộc của giặc, nào chức vị, nào tiền tài, nào xe hơi, nhà lầu, gái đẹp... đối với anh đều là của giả, của giả hết. Anh tự nghĩ: "Cả cái chế độ của chúng là giả, là đen tối, là phản động, là thủ đoạn, lừa gạt. Cái chế độ xây dựng trên xương máu của nhân dân ấy, tôi nguyền rủa nó, tôi phải đập phá nó, tôi không thèm thứ gì của nó hết". Và anh tâm niệm: "Không luyến tiếc bất cứ cái gì ở trên đời này, chỉ một lòng hướng về với Đảng, với dân, tất cả cái khác đều là vô nghĩa".

 Toàn tâm toàn ý hướng về với Đảng, với dân, xả thân vì cách mạng, hy sinh hạnh phúc cá nhân cá nhân mình, coi tất cả cái khác là vô nghĩa, phải chăng đó cũng là một thứ chủ nghĩa khắc kỷ như bọn phản động vẫn thường rêu rao. Không! Chúng ta không phải là những kẻ "tử vì đạo", bởi vì lý tưởng của chúng ta không phải là một đạo giáo. Chúng ta quên mình vì sự nghiệp cách mạng, vì tự do và hạnh phúc chung của dân tộc, của giai cấp cần lao, của nhân loại, bởi vì tất cả mọi hạnh phúc cá nhân chỉ có thể có được một cách toàn vẹn và chân chính khi nào xã hội thực sự được tự do, dân tộc, giai cấp cần lao, loài người thực sự được giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột. Không có độc lập và thống nhất Tổ quốc, không có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản thì không có gì thực sự là hòa bình, ấm no, hạnh phúc cho mọi người. Nhận thức rõ như thế, Nguyễn Đức Thuận đã khẳng định: "Bắt đầu từ lúc này, tôi càng nhận rõ mỗi sợi tóc, mỗi mảng thịt, mỗi giọt máu trên người tôi đâu còn là của tôi. Bắt đầu từ lúc này, tôi càng nhận rõ mỗi ý nghĩ, mỗi cảm giác, mỗi ký ức đâu có còn là của tôi nữa. Tất cả tôi đã thuộc về cách mạng. Cách mạng trao cho tôi, và tôi nguyện làm một người quản lý trung thành, quyết giữ gìn toàn vẹn tài sản của cách mạng".

 Nguyễn Đức Thuận cùng với các đồng chí, đồng bào yêu nước sẵn sàng chờ đợi mọi thứ cực hình, sẵn sàng đi vào địa ngục đương đầu với bày quỷ dữ, giữ vững khí tiết của người cộng sản luôn luôn như "bông hoa trước ngực, hương thơm muôn thuở".  

Dù đau khổ không phai đức độ  

Dù gian nguy không phụ lời thề.  

Mặc cho thuốc độc bùa mê  

Thủy chung giữ vững lời thề sắt son.

 Từ những cuộc tra tấn đứng đèn khủng khiếp ở Pêcarăngđơ đến những cực hình khác đẩy anh đến bên miệng hố của thần chết, Nguyễn Đức Thuận và các đồng chí, đồng bào yêu nước luôn luôn giữ thế chủ động, rất vững vàng, tự tin, toát ra ý chí "người tao chúng mày có thể róc từng miếng xương, xẻo từng miếng thịt; tim tao, chúng mày có thể bóp cho nó ngừng đập, nhưng óc tao, tinh thần tao, tinh thần cách mạng và bộ óc khoa học của người cộng sản thì vạn kiếp chúng mày cũng không sai khiến nổi". Và bọn giặc đã lần lượt cúi đầu trước cái khí tiết bất khuất ấy. Tinh thần chịu đựng hy sinh của anh và đồng đội thực là kỳ diệu. Nguyễn Đức Thuận đã đứng dưới hai ngọn đèn một nghìn oát, đứng không đổi chân, không ăn, không uống, không ngủ, đứng trong trạng thái mấp mé sự hôn mê mà vẫn đứng, không phải đứng một lần mà nhiều lần, có lần suốt ba ngày ba đêm liền. Chúng cứ hỏi, anh cứ đứng. Chúng thay nhau quần anh, một mình anh đương đầu với tất cả. Khi cái chết đã đến gần bên, anh tự nhủ: "Mình khuất phục là hết sức nguy hiểm, là tự mình bôi nhọ mấy chữ người cộng sản, là tự mình phủ định chân lý chủ nghĩa Mác - Lênin bách chiến bách thắng. Bọn chúng là cái gì? Mình không thèm đọ sức với chúng". Những lúc ấy Lênin đến với anh, Hồ Chủ tịch đến với anh, các vị anh hùng dân tộc, các vị tiền bối cách mạng đến với anh, sống trong anh, nâng anh lên, tiếp cho anh thêm sinh lực để giữ vững khí thế tiến công và chiến thắng địch. Cũng có lúc hình ảnh của những đồng bào đã nuôi nấng anh, giúp đỡ anh trong lòng Sài Gòn, hiện lên trong đầu óc anh; anh nhớ từng trái bắp, trái na, từng chùm nhãn mà các bác, các mẹ, các chị, các cháu cho anh ăn; những cái đó nhắc anh phải chịu đựng mọi cực hình để bảo vệ đồng bào đã hết lòng vì cách mạng. Có lúc anh học tập gương của người con gái anh hùng Võ Thị Sáu, anh tự nhủ: "Võ Thị Sáu, tuổi Đảng, tuổi đời đều kém ta nhưng ta không mong gì hơn, chỉ mong làm được như Sáu đã làm". Những tấm gương kiên cường luôn luôn đạp lên đầu thù mà đi của các đồng bào, đồng chí quanh anh như Hà Minh Trí, ông già Ngọc, em Mười, anh Phan Trọng Bình, anh Ngô Đến, anh Tín, anh Hiếu, anh Sơn v. v... đều là những bài học động viên anh, giáo dục anh, nâng anh lên từng giờ, từng phút trước dã tâm đánh phá, dụ dỗ và truy bức trường kỳ của địch.

 Lý tưởng cộng sản chủ nghĩa phát huy cao độ lòng yêu nước, thương dân, căm thù địch, thấm sâu vào trái tim, vào bộ óc của anh, làm cho anh có một sức mạnh phi thường, trở thành gang thép, không một lò lửa nào có thể nung chảy được, "trơ như đá, vững như đồng, ai lay chẳng chuyển ai rung chẳng rời".

 Nhưng không phải chỉ có một mình Nguyễn Đức Thuận. Các chiến sĩ cộng sản kiên cường đều có sức sống mãnh liệt ấy. Ngày nay toàn thể nhân dân Việt Nam từ Nam chí Bắc dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng ta đều có một sức sống mãnh liệt, coi thường cái chết để bảo vệ cuộc sống, xây dựng cuộc sống độc lập tự do cho dân tộc, cho giai cấp cần lao và cho nhân loại. Sức sống ấy không phải chỉ thể hiện ở trong nhà tù đương đầu với kẻ địch như những con người kiên cường trong BẤT KHUẤT, mà còn thể hiện ở ngoài mặt trận, ở trong công trường, nông trường, xí nghiệp, hợp tác xã, cơ quan, trường học... ở khắp nơi từ tiền tuyến đến hậu phương, trong sản xuất cũng như trong chiến đấu. Bất kỳ ở đâu, chúng ta cũng thấy hàng ngày, hàng giờ biết bao sự việc anh hùng, biết bao nhiêu những người tốt việc tốt trong hàng ngũ những con người Việt Nam bình thường yêu nước. Thời đại chúng ta là một thời đại anh hùng, dân tộc ta là một dân tộc anh hùng.

 Bởi vì chúng ta có truyền thống anh hùng được tiếp tục và nâng cao dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng ta và của Hồ Chủ tịch. Bởi vì nhân dân ta đã nhận thức sâu sắc rằng mục đích của cuộc sống, phẩm giá của con người là đấu tranh vì cuộc sống, vì con người.

IV. NHÂN DÂN TA NHẤT ĐỊNH THẮNG VÌ NHÂN DÂN TA BIẾT LÀM NGƯỜI VÀ CÓ ĐẠO LÝ LÀM NGƯỜI

 Đế quốc Mỹ xâm lược rất biết nguồn gốc của sức sống mãnh liệt ấy của nhân dân ta. Đó là lý tưởng cộng sản chủ nghĩa phát huy cao độ truyền thống yêu nước với đạo lý làm người của dân tộc ta, ngày nay được sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam và Hồ Chủ tịch, đã thấm sâu vào trong đời sống của toàn thể nhân dân ta. Sức sống "người" ấy như gió bão đang cuốn sạch những rác rưởi của mọi cuộc sống "thú vật". Cho nên, là thú vật, chúng nó phải ra sức dùng mọi âm mưu tiêu diệt cái sức sống "người" ấy, tiêu diệt cái nguồn gốc của sức sống ấy.

 BẤT KHUẤT đã tố cáo và lên án đanh thép những âm mưu cực kỳ phản động của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Chúng đánh phá cả về tổ chức lẫn tư tưởng và trường kỳ truy bức tư tưởng đến cùng. Đó là điều mà đế quốc Mỹ đã rút được qua tổng kết kinh nghiệm chống cộng sản ở trên toàn thế giới. BẤT KHUẤT đã thuật lại cho chúng ta rất tỉ mỉ về mọi hành động và âm mưu đánh phá dữ dội, ác liệt vào thể xác, trường kỳ đầy ải người tù cho đến lúc mấp mé cái chết, rồi truy bức tư tưởng làm cho người tù phải chịu khai báo, chịu chào cờ ba que, chịu học tập "tố cộng", chịu "ly khai" chủ nghĩa cộng sản. Tinh vi hơn nữa là chúng vừa đánh phá ác liệt, vừa dụ dỗ, vừa dùng đòn tâm lý. Sau những trận tra tấn ác liệt, đánh cho người tù đau đớn đến lúc gần chết thì chúng lại xoay ra "chiến dịch bác ái", cho ăn uống cực kỳ sang trọng, kích động và khơi lên lòng thèm khát cuộc sống riêng cho cá nhân mình mà xa rời cách mạng trong một phút. Lúc đó, chúng đẩy mạnh tới, rồi qua cầu rút ván, làm cho người tù không quay trở lại được, dần dần đi theo chúng vào con đường chống đối cách mạng.

 Bằng đủ mọi hình thức, quân thù hòng tiêu diệt khí tiết của người đảng viên cộng sản và lòng yêu nước của nhân dân ta, hòng tiêu diệt ý chí phấn đấu của đồng bào, đồng chí chúng ta, nhằm đạt yêu cầu tối đa là buộc người tù trở thành đối tượng của cách mạng. Chúng lợi dụng những người tạm thời chịu đầu hàng, khuất phục chúng, làm công cụ tuyên truyền tô son trát phấn cho chúng; yêu cầu tối thiểu là gieo rắc tình trạng hoài nghi đối với người tù để sau này làm hạn chế sức hoạt động của họ. Làm cho người tù phải chịu chào cờ, học tập "tố cộng", chịu ca hát và hô khẩu hiệu của chúng, chúng cũng đạt được yêu cầu là trước mắt người ta chính nghĩa và phi nghĩa bị lộn sòng, chính nghĩa bị mơ hồ.

 BẤT KHUẤT đã đi sâu miêu tả, phân tích những thủ đoạn và âm mưu dã man, đê hèn của quân thù được thể hiện ra ở nhiều khía cạnh xảo quyệt, tinh vi. Nhưng với tất cả những thủ đoạn ấy, dù bằng bất cứ một hình thức xảo trá nào, dù bằng bất kỳ một khoa học kỹ thuật tinh vi nào, giặc Mỹ và bè lũ tay sai cũng không lừa được ai. Và chính chúng cũng đã thừa nhận và phải thốt ra: "chính sách cải huấn chẳng cải được ai".

 Nguyễn Đức Thuận không đơn độc. Dù trong bất kỳ hoàn cảnh bị cô lập đến đâu, anh vẫn sống trong lòng Đảng, trong lòng tập thể. Và cùng với các đồng chí, đồng bào yêu nước đoàn kết thành một khối vững chắc dưới sự lãnh đạo của Đảng, biết bao nhiêu người trong đó có anh đã giương cao lá cờ bất khuất, quyết chiến quyết thắng, đứng vững trên mảnh đất xã hội chủ nghĩa ngay trong địa ngục của quỷ dữ, bảo vệ khí tiết của người cộng sản, lần lượt đánh bại mọi âm mưu của kẻ thù.

 Em Hội, học sinh 19 tuổi, khi bọn địch hỏi theo ai, em trả lời: "Theo những người cộng sản là những người yêu nước nhất, kháng chiến có công nhất". Chúng nói xấu cộng sản, anh Ba tức Ngàn chỉ vào tai nói: "Hỏi vô đề chớ nói cái chi chi, tôi nghe không lọt. Tai tôi lòi". Anh Hạnh là thầy giáo, gặp thằng học trò cũ phỉnh phờ anh, dụ dỗ anh, anh đáp: "Từ ngày tôi vào tù, tôi đã hiểu chủ nghĩa cộng sản là chính nghĩa, các ông là phi nghĩa. Tôi đã thấy rõ ai bán nước phản dân và ai vì dân vì nước, cho nên tôi theo cộng sản". Biết ông già Ngọc không phải là đảng viên, chúng hỏi: "Ông mắc nợ gì cộng sản mà cứ đeo lấy họ ở đây chịu chết?". Lần nào cũng như lần nào, ông chỉ trả lời có một câu: "Cộng sản giải phóng cho nước cho dân, tôi mắc nợ họ cái khoản đó. Tôi sống từng này tuổi, sướng có, khổ có, chỉ thiếu cái chết vinh quang thôi, cho nên tôi ở lại với họ, chết cho cách mạng". Anh Lưu Chí Hiếu ốm nặng, thổ ra hàng tô máu, chúng bỏ mặc rồi dụ dỗ anh nếu "ly khai" sẽ đem ra bệnh xá, anh ung dung trả lời: "Tao không thèm ly khai". Nghe hai tiếng "không thèm" của anh mà chúng ta không sao ngăn được nước mắt. Anh Trần Trung Tín tuyệt thực hai mươi ngày liền để biểu thị ý chí quyết không "ly khai"; địch không cho anh uống nước, anh vẫn tiếp tục không ăn không uống. Nằm li bì sắp chết, tình cờ có thư và quà của vợ anh gửi tới, chúng tưởng bở đem vào hỏi anh nếu "ly khai" sẽ đọc thư cho anh nghe, nhưng anh không thèm trả lời.

 Những hành động đấu tranh dũng cảm, kiên cường ấy diễn ra hàng ngày hàng giờ, giằng co với địch làm cho chúng phải chùn tay lại, đành chịu thua và khiếp phục. Thằng Lam Sơn nhất nhất phải nghe lời anh Thuận, mỗi khi anh đi ra nhà xí, nó phải dắt sẵn dưới mái nhà một tờ báo để anh xem. Thằng Tám đã phải quỳ dưới chân các anh mà nói: "Chúng tôi đã thấy vũ lực không thể thắng nổi trái tim người, xin các ông xóa bỏ mọi hận thù cũ".

 Chúng ta nhất định thắng bởi vì chúng ta biết sống làm người và có đạo lý làm người. Chúng nó khiếp phục chúng ta và chúng nó nhất định thua bởi vì chúng nó sống kiếp thú vật, phi nghĩa, sống cũng như chết.

V. KIÊN QUYẾT ĐẤU TRANH CHỐNG CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN ĐỂ BẢO VỆ PHẨM GIÁ CON NGƯỜI

 Giữa cái sống và cái chết, không phải Nguyễn Đức Thuận và các đồng chí, đồng bào yêu nước của chúng ta liều mạng mà chết, hoặc chờ đón cái chết nhẹ như lông hồng, như những anh hùng thần thoại. Không, không phải họ là những siêu nhân, những thần thánh. Họ chỉ là những con người bình thường nhưng họ có lý tưởng làm người của chủ nghĩa cộng sản. Mà muốn giữ vững được lý tưởng làm người ấy, họ phải trải qua những cuộc vật lộn với bản thân mình vô cùng gay gắt. Mỗi phút mỗi giây ấy lòng tham sống sợ chết đến mê hoặc họ bằng nhiều thứ ngụy luận làm lu mờ lý tưởng, làm trùng gân cốt đấu tranh. Anh Tín đã từng băn khoăn mãi trước hai chữ "ly khai" và cái dấu hỏi ở trên tường xà lim. Anh Bình đã từng vật vã biết bao nhiêu đêm không ngủ, và Nguyễn Đức Thuận cũng đã từng bao nhiêu lần đi đi lại lại hết đêm trong gian chuồng cọp chật hẹp, vật lộn với cái cá nhân nhỏ bé của mình.

 Kẻ địch dồn người tù chạy quanh cõi chết, nếu người tù không "ly khai" thì cũng là sống trong cõi chết, trong khi đó địch ngỏ một cánh cửa "ly khai". Chỉ một phút do dự, nếu anh không đấu tranh được với bản thân, mon men đi gần tới cánh cửa đó, là chúng đánh phá cực kỳ ác liệt làm cho bản năng ham sống của anh trỗi dậy thật mạnh mà tặc lưỡi nhào qua cửa.

 Nguyễn Đức Thuận đã phân tích sâu sắc những cuộc vật lộn dai dẳng như thế với chủ nghĩa cá nhân. Anh nói: "Cần nói thật công bằng rằng ở trong tù cái diện của chủ nghĩa cá nhân đã mở rộng cả ra những điều mong ước chính đáng, tối cần thiết, chỉ vì lúc này những cái đó không có lợi cho cuộc đấu tranh giữ vững khí tiết mà thôi".

 Nhớ vợ thương con là tình cảm chính đáng. Nhưng nếu cứ như anh Vạn suốt đêm ngày lúc nào cũng nghĩ đến vợ, đến con, quá nặng gánh thương nhớ, rồi vì không thể thắng được sự giằng co giữa tình cảm gia đình và tình cảm cách mạng, giữa cái sống và cái chết của cá nhân anh, anh tự tử. Đau khổ quá mà tự sát, đó là chỗ yếu hèn của anh. Địch cứu chữa cho anh, anh sống; rồi từ chỗ yếu hèn mà tự tử dẫn đến chỗ yếu hèn mà "ly khai". Nhưng "ly khai" rồi, anh hối hận mà hóa ra câm bặt từ đấy.

 Cần hiểu tình hình bên ngoài đối với người tù là cái cần thiết. Thế nhưng anh Mười Đ đã quá chú trọng đến việc thăm hỏi tình hình bên ngoài, gặp ai cũng hỏi, gặp ai cũng săn đón. Sự chú trọng của anh đối với tình hình quá khác thường, nó là biểu hiện của động cơ chiến đấu vì tình hình. Cho nên mặc dù qua bao nhiêu cửa ải, đã nhiều lần đứng vững trong chuồng cọp, thế mà anh bị gục trong một phút vì anh chưa trông thấy tình hình sáng sủa.

 Có những anh đấu tranh kiên cường bao nhiêu năm, thế mà bên miệng cái chết đã tặc lưỡi "ly khai", rồi hối hận mà phát điên hoặc chết. Thế là không thắng được bản thân trong một phút thôi mà sa ngã.

 Nguyễn Đức Thuận đã kể lại những chuỗi ngày vật lộn với địch, với mình, dài đằng đẵng, diễn ra liên tục, gay go, phức tạp, đau khổ. Có lúc anh tưởng chừng như phát điên. Có lúc anh tập hô khẩu hiệu, sợ điên sẽ nói lảm nhảm có hại cho uy tín của Đảng. Có lúc anh "vừa hạ quyết tâm xong, trở mình nghe chỗ xương gãy kêu đánh cục và đau bắn người lên, thế là lại lởn vởn ngay lập tức cái ý nghĩ: có nên chết chăng?". Có lúc anh "vừa xác định xong phải chết mới thắng được địch, thì chợt nhớ tới những ngày khổ ải đã qua và ngó trông trước những ngày sắp tới, thế là lại thừ ra: mình đến bước này có "ly khai" cũng được thôi chứ nhỉ? Cố gắng đến bước này là chẳng kém ai rồi, nếu có kém thì chỉ kém những người đã chết. Như vậy Đảng cũng chiếu cố mà tha thứ cho thôi...". Có lúc chỉ vì một câu chuyện không đâu, như nghe tin phao đồn vệ tinh Liên Xô lên mặt trăng, bắt gặp người mặt trăng đưa về trái đất mà anh Bình cũng thẫn thờ suốt mấy ngày: "Trời ơi, chết lúc này uổng quá. Về đi, về xem người mặt trăng thế nào chứ!".

Mà nào có thế thôi đâu, còn phải gạt bỏ biết bao nhiêu thứ luận điệu đường mật thủ thỉ bên tai hàng ngày:

 - Các ông ạ, chấp kinh cũng có phải có lúc tòng quyền chứ.

 - Ông ký giấy "ly khai" nhưng bụng không "ly khai" thì ai làm gì được ông? Chẳng lẽ vì câu nệ một chút thủ tục giấy tờ mà ông đành chịu chết, bỏ dở đấu tranh à?

 - Hay là các ông có tư tưởng anh hùng cái thế, muốn làm những chuyện phi thường, hơn đời? v.v...

 Cuộc vật lộn giằng co với ý nghĩ cá nhân chủ nghĩa của bản thân diễn ra đồng thời và xen kẽ với cuộc vật lộn giằng co với địch, cả ngày lẫn đêm, chỉ trừ khi nào nhắm mắt ngủ. Hễ mở mắt là lập tức trong người lại thành ra bãi chiến trường của hai ý nghĩ sống và chết vật lộn nhau. "Ở trong tù, kẻ thù tư tưởng gắn liền với đời sống của cá nhân mình, với vợ con gia đình mình, với cái đau đớn cụ thể trên da thịt mình... Nó hiện lên bằng mắt đứa con thơ, nó hiện lên bằng lời nói dịu dàng của người vợ, nó hiện lên cả bằng những lý lẽ có vẻ cách mạng nữa".

Nguyễn Đức Thuận đã cho chúng ta rất nhiều kinh nghiệm phong phú về cuộc đấu tranh gian khổ chống chủ nghĩa cá nhân, một bài học cảnh giác sâu sắc đối với mọi việc, mọi hành động, mọi ý nghĩ của bản thân mình, từ cái lớn đến cái nhỏ, từ cái thực tế đến cái viển vông, từ cái gần đến cái xa, từ cái cụ thể đến cái trừu tượng, nhiều cái chỉ sơ ý một chút thôi là rất có khả năng làm trùng gân, trùng cốt, buông xuôi.

 Lênin đã nói: "Tôi không sợ khổ, không sợ chết. Tôi chỉ sợ không thắng nổi những phút yếu đuối của lòng tôi, và đối với tôi, chiến thắng vẻ vang nhất là chiến thắng bản thân". Con người ta vốn rất bình thường, nhưng trở thành được anh hùng chính là vì có lý tưởng đúng đắn về cuộc sống. Và kiên quyết đấu tranh không ngừng chống chủ nghĩa cá nhân, chiến thắng những phút yếu đuối của bản thân mình, làm chủ được mình, mới giữ vững được lý tưởng, bảo toàn được cuộc sống có giá trị, nêu cao được khí tiết, phẩm giá con người.

VI. THA THIẾT YÊU CUỘC SỐNG, SỐNG CHIẾN ĐẤU VÀ CHIẾN THẮNG

 Không tham sống sợ chết, sẵn sàng đi vào cái chết một cách chiến thắng; nhưng không ở đâu bằng ở đây, ta thấy những con người BẤT KHUẤT yêu tha thiết cuộc sống, tranh thủ sống và tận hưởng từng giờ từng phút cái đẹp của cuộc sống.

Trong chuồng cọp, các anh đã tạo ra riêng cho mình một thiên đường xã hội chủ nghĩa để mà sống, mà lao động, đấu tranh, học tập, vui chơi. Chúng ta hãy nghe Nguyễn Đức Thuận tả lại:

 "Sáng 5 giờ, kẻng báo thức toàn lao, anh em dậy, giả dụ anh em chưa buồn dậy, chúng cũng không làm gì nổi. Từng cụm chuyền tay nhau chiếc điếu cầy, điếu cầy bằng lọ thuốc pênixilin mài thủng một lỗ nhỏ ở vai làm nõ điếu, xe bằng thân cây bút chì mực. Vê một dúm thuốc lào, "cò kè" rít một hơi dài, phủ khói um khám rồi lục tục mỗi người một cục giẻ, một mảnh sành..., lên lớp văn hóa. Việc học đã thành một yêu cầu mãnh liệt của anh em tù. Đây là một lớp toán, kia một lớp văn, góc này lớp địa lý, góc nọ lớp sử. Học cả điện, học cả máy nổ, học cả chụp ảnh, lái xe hơi... Học cả âm nhạc nữa. Những buổi thảo luận chính trị - một môn học quan trọng hàng đầu - bao giờ cũng sôi nổi. Anh em thảo luận đủ thứ: thời sự, đường lối cách mạng, chủ trương đấu tranh trong tù, phân tích một hiện tượng mới nhận thấy ở địch... cách đối phó...

 Trong khám lúc nào cũng rúc rích tiếng cười. Giữa các giờ học tập là giờ "sản xuất". Thôi thì khắp khám ran ran các thứ tiếng gò lon, tiếng cưa đột giây cáp làm kim, tiếng mài gáo dừa, xương bò, vỏ ốc tai tượng làm "cà rá", tiếng khoan các bàn chải đánh răng làm bót thuốc lá v.v... Nhẫn gáo dừa đen bóng như huyền lại có vân rất đẹp. Lập lắc nhôm có khắc tên họ cẩn thận. Kim khâu bằng một sợi dây cáp, lỗ kim đục bằng cái ống cưa thuốc tiêm, vậy mà vẫn sắc và có phần không hay gãy như kim mua ở chợ...

 Buổi tối, trong khám nhộn nhịp hẳn. Đây rạp "chiếu bóng", kia "rạp tuồng". Và nọ "tiệm ăn". Mỗi chỗ một toán bá vai bá cổ nhau chuyện nở như bắp rang. Rạp "chiếu bóng" kể chuyện phim đã xem hoặc đã nghe ở người khác. Rạp "tuồng" cũng kể. Nhưng khán giả vẫn đông, hết chỗ, vòng trong, vòng ngoài, có khi phải chiếu, phải diễn mấy lượt mới đủ".

 Bọn địch đầy ải, bỏ người tù chết bệnh, chết tật, chết dần, chết mòn, nhưng anh em đã nhất quyết sống, uống nước phân để mà sống, ăn cỏ để mà sống, cắt máu ở ngón tay ra cho đồng chí mình mút để mà sống, ăn sống nuốt tươi như thời nguyên thủy. Nguyễn Đức Thuận nói: "Đúng, chúng tôi đã mút sống từ con ốc sên nhỏ bằng hạt đỗ bắt được dưới một tảng đá, đến nuốt chửng các thứ chuột mới đẻ còn đỏ hỏn trong hang và thạch sùng trên vách". Muốn sống ngay thẳng, muốn sống trung thành với sự nghiệp cách mạng, muốn sống làm người thực sự, các đồng chí đồng bào của chúng ta ở Côn Đảo đã phải giành lấy sự sống một cách xót xa, đau thương như thế.

 Không ở đâu tình thương yêu đồng bào, đồng chí, bảo toàn cuộc sống cho nhau lại có thể hơn được ở đây. Họ thương nhau hơn cả ruột thịt, "anh chỉ rên một tiếng là mọi người quây lại lo lắng, anh chỉ ú ớ một tiếng mê sảng là chung quanh hồi hộp lắng nghe... Suốt thời gian anh bị ốm, lúc nào cũng có ít nhất một bàn tay đặt trên người anh xoa bóp".

 Không ở đâu tình thương vợ thương con lại tha thiết hơn ở đây. Có lần trong đêm giao thừa, Nguyễn Đức Thuận thấy mường tượng như mấy đứa con và vợ anh hiện lên, và lúc đó lòng anh xốn xang tưởng chừng chỉ cần anh im lặng một chút là hình ảnh vợ con hóa thành người thật sự ở bên cạnh anh. Anh nói: "Tôi run run giơ bàn tay lên, vuốt tóc mấy đứa con tưởng tượng đang giương những con mắt đen láy và tròn xoe nhìn tôi...". Nhưng rồi anh nói với con anh mà cũng là tự nhủ lòng mình: "Các con cố tìm mọi cách về thăm quê nội và nói với họ hàng rằng ba đã làm trọn những lời ông dậy dỗ, đã không làm điều gì để ô nhục cho gia đình họ Bùi". Và anh tin rằng nhất định anh sẽ sống, chiến đấu và chiến thắng để trở về với vợ con anh.

Có những lúc anh nằm nhìn mê mải những tia nắng mặt trời chấp chới, những hạt bụi lọt vào trong khám tối, hoặc say sưa ngắm một ánh sáng trăng xanh rọi sáng bệ nằm. Anh Bình có một nếp quen là tháng nào cũng dành được mấy đêm ngắm trăng, hầu như bao giờ anh cũng bắt được trăng từ mái ngói hở ở chuồng cọp.

 Bọn địch đưa Nguyễn Đức Thuận ra biển, định quẳng anh xuống đó. Trước giờ chết, anh cảm thấy lâng lâng, nhè nhẹ, anh nhìn đất nước mênh mông, dịu lắng mà càng thêm yêu mến đất nước cảnh vật vô cùng. Anh nhìn hòn núi Chúa, thấy nó hùng vĩ chứ không ghê rợn như những đêm mưa bão. Nhìn lên sườn núi, thấy một vệt sáng xanh, anh nhớ mang máng một câu thơ cổ, "nhớ từ cái sáng trăng lưng sườn núi mà không sao nhớ ra được lời thơ. Một câu thơ Đường thì phải". Anh nhìn bãi cát trắng, nhìn những nấm mồ bên hàng dương, anh tự nhủ: "Trăng sáng, biển khơi, núi cao, trời rộng. Chết trong đó với cái khí tiết không hề suy suyển. Được lắm!". Trước giờ chết, anh lại càng yêu mến cảnh vật, yêu mến thiên nhiên, yêu mến cuộc sống, thưởng thức cái đẹp của núi sông, đất nước mà không hề xao xuyến dao động, sẵn sàng đi vào cái chết một cách chiến thắng.

 Đảng đã chắp cho anh một đôi cánh bay cao, mở cho anh một đôi mắt trong sáng, gắn sâu vào tim óc anh lý trí đúng đắn và tình cảm phong phú, để nhận thức đúng và hành động đúng trong cuộc sống với tư thế của kẻ chiến thắng. Sống trong lòng Đảng, trong lòng nhân dân, được sự giúp đỡ trìu mến của tập thể, của quần chúng, tiếp thu truyền thống về đạo lý làm người của nhân dân ta, Nguyễn Đức Thuận và các đồng chí, đồng bào yêu nước của chúng ta đã hiểu rõ cái đẹp chân chính của cuộc sống, tha thiết yêu cuộc sống, sống xứng đáng với danh hiệu con người là sống chiến đấu và chiến thắng. Những người sa vào tay giặc, dù có phải hy sinh, cũng chết với cái chết xứng đáng của con người: chết chiến thắng.

KẾT LUẬN

 Những con người trong BẤT KHUẤT không phải là những con người tưởng tượng, mà là những con người có thực bằng xương bằng thịt, những con người thể hiện vẻ đẹp theo quan điểm mỹ học cộng sản chủ nghĩa của chúng ta. Họ sống bình thường, nhưng trong cuộc sống đấu tranh họ đã thống nhất được trong mình họ cái đẹp của cuộc sống con người với cái đạo đức, cái phẩm giá làm người. Họ đã chứng minh rằng ngày nay lý tưởng đã được họ biến thành hiện thực, và với lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, họ đã chiến thắng trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Họ đã làm nổi bật sự gắn liền cá nhân với tập thể, với xã hội; và xác định rằng hạnh phúc con người chỉ có thể có được khi con người đấu tranh vì hạnh phúc chung cho mọi người, như Mác đã nói: "Hạnh phúc là đấu tranh. Đầu hàng hoàn cảnh, khước từ đấu tranh tức là hạ thấp phẩm giá con người". Trong họ không có mâu thuẫn giữa mục đích chủ quan của cá nhân họ với ý nghĩa lịch sử khách quan của cuộc sống xã hội. Không có sự mâu thuẫn giữa họ với quần chúng. Cuộc sống của họ bao giờ cũng kết hợp chặt chẽ với cuộc sống của quần chúng. Và một khi lý tưởng cộng sản chủ nghĩa phát huy cao độ truyền thống yêu nước với đạo lý làm người của ông cha ta, thấm sâu vào cuộc sống của mọi người dưới ánh sáng của Đảng, thì nó đem lại cho con người ta một sức sống mãnh liệt, tuyệt vời, làm cho con người càng yêu mến tha thiết cuộc sống lại càng sẵn sàng đi vào cõi chết khi cần thiết để bảo vệ lấy cuộc sống, xây dựng cuộc sống tươi đẹp, tiến lên phía trước. Do đó, lạc quan là cái tất yếu đối với họ, họ không mang theo cái bi kịch của sự hy sinh cá nhân.

 BẤT KHUẤT với những con người có thực, xứng đáng là người, đã cho chúng ta một bài học lớn về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, nêu rõ quan điểm đúng đắn về cuộc sống và cái chết, về đạo lý làm người của người cách mạng.

 BẤT KHUẤT giúp cho chúng ta thấy rõ hiện thực vĩ đại của đất nước ta chính là cơ sở, là nguồn gốc cho nền mỹ học của chúng ta, cho việc xây dựng sáng tạo nhân vật điển hình tích cực của nền văn học nghệ thuật hiện thực xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

 BẤT KHUẤT còn khẳng định rõ sự nghiệp bảo vệ phầm giá con người, đấu tranh giải phóng con người, phải gắn liền với sự nghiệp xây dựng một xã hội mới với những con người mới, một xã hội không có người bóc lột người trong đó mọi người đều được cải tạo giáo dục trở thành những người lao động có tư tưởng làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa mình vì mọi người.

 Trong việc xây dựng con người mới, nhà trường của chúng ta giữ một vị trí rất quan trọng. Thấm nhuần tinh thần BẤT KHUẤT mình vì mọi người, người thầy giáo "càng yêu người bao nhiêu thì càng yêu nghề bấy nhiêu" (2). Học sinh cũng vậy, với tinh thần BẤT KHUẤT các em không chỉ học riêng cho mình mà là học vì mọi người, vì sự nghiệp cách mạng của đất nước và của cả loài người.

 Được Đảng ta và Bác Hồ lãnh đạo giáo dục dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, toàn dân ta đã và đang ra sức phát huy và nâng cao truyền thống đạo lý làm người của ông cha ta trở thành đạo lý làm người của người cách mạng, của con người mới, người lao động xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.

 "Cần kiệm liêm chính", "chí công vô tư", "trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng", những lời dạy chí tình của Đảng và Bác Hồ thấm sâu vào bộ óc và trái tim của toàn dân ta, biến thành những việc tốt, những việc lớn anh hùng và những việc nhỏ anh hùng trong đời sống hàng ngày trên đất nước ta.

 Không phải chỉ trong cái địa ngục trần gian ở xã hội miền Nam mới xuất hiện những con người bình thường mà anh hùng như BẤT KHUẤT đã thuật lại. Ngày nay, từ tiền tuyến đến hậu phương, trong cao trào thi đua chống Mỹ cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa anh hùng cách mạng đang trở thành phổ biến. Một phong trào học tập và noi gương những người tốt, thi đua làm những việc tốt đang diễn ra sôi nổi, sâu rộng chưa từng có, nêu cao khí thế tiến công cách mạng trên khắp các mặt sản xuất và chiến đấu. Bên cạnh những tấm gương sáng ngời của BẤT KHUẤT, bên cạnh biết bao nhiêu anh hùng dũng sĩ và chiến sĩ thi đua, lại còn hàng ngàn hàng vạn những người bình thường thuộc đủ các dân tộc, các tầng lớp, các giới, các lứa tuổi, từ những ông già bà cả đến thanh niên, thiếu niên, nhi đồng, hàng ngày hàng giờ làm những việc tốt ích nước lợi dân. Không phải chỉ có những việc lớn tốt mới anh hùng, mà những việc nhỏ tốt cũng anh hùng, bởi vì tất cả những việc đó đều biểu hiện cái khí thế cách mạng của con người mới với ý thức làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, mình vì mọi người. Xây dựng con người mới, người anh hùng cách mạng chính là bắt đầu từ những việc làm tốt hàng ngày, việc tuy nhỏ ai ai cũng có thể làm được nhưng là những việc làm mình vì mọi người. Đó là đạo đức, là văn minh, là thuần phong mỹ tục của xã hội Việt Nam ta.

 "Trên đất nước ta đang diễn ra cuộc chiến đấu quyết liệt giữa chính nghĩa và phi nghĩa, giữa văn minh và bạo tàn" (3). Chính nghĩa nhất định sẽ thắng phi nghĩa, văn minh nhất định sẽ thắng bạo tàn. Hơn mười năm nay, với dã tâm xâm lược tàn bạo, hủy diệt con người, hủy diệt cuộc sống, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đã dựng lên biết bao nhiêu địa ngục và kéo lê máy chém đi khắp miền Nam nhưng chúng vẫn không thể nào tiêu diệt được lòng yêu nước với ý chí sắt đá của đồng bào miền Nam hướng về Đảng, về dân, về Hồ Chủ tịch. Tuyệt vọng, liều lĩnh và điên cuồng chẳng khác gì loài quỷ dữ, đế quốc Mỹ leo thang ra miền Bắc, ném bom giết hại đồng bào ta, định phá sạch, đốt sạch, định tiêu diệt cuộc sống trên đất nước ta, hòng thực hiện và bành trướng chủ nghĩa "đớp tự do" trong cái "thế giới tự do đớp" của chúng. Nhưng chúng nó đã hoang mang, điên đầu và tính nhầm. Trong địa ngục miền Nam, chúng vừa dụ dỗ vừa điên cuồng tàn sát, mà vẫn phải quỳ gối khiếp phục những người cộng sản và đồng bào yêu nước. Chúng không biết rút kinh nghiệm của bài học BẤT KHUẤT ấy. Chúng đã vấp phải bàn tay thép của toàn thể nhân dân Việt Nam bất khuất, anh hùng. Và sự thật là nhân dân Việt Nam đã và đang giáng cho chúng, những đòn chí mạng, làm cho chúng thất điên bát đảo, thua hết keo này đến keo khác. Ngày nay nhân dân thế giới đều phỉ nhổ vào mặt chúng. Càng bị cô lập, chúng càng lục đục, hoang mang; chính bọn chúng cũng đã phải thú nhận rằng: "Việt Nam là một chữ hình như vượt ra ngoài sự hiểu biết của mọi người. Nó không còn chỉ có ý nghĩa là một khu vực hay một dân tộc. Nó có nghĩa là trạng thái hoàn toàn hoang mang mà từ trạng thái đó đẻ ra những hành động điên rồ" (hành động điên rồ của giặc Mỹ xâm lược, HHG) (Báo Washington Evening Star 13.9.67) - David Lavrence). (4)

-----

(2) Trích bài nói của đồng chí Lê Duẩn tại trường Đại học sư phạm Hà Nội ngày 29-6-1962.

(3) Trích lời Hồ Chủ tịch

(4) Báo Ngôi sao chiều Oasinhtơn. Đavít Laurơnxơ.

 Mặc dù chúng có âm mưu mồm nói "đàm phán hòa bình" giả dối mà gây chiến tranh ác liệt đến đâu chăng nữa, nhân dân Việt Nam nhất định sẽ quật ngã hoàn toàn và quét sạch sành sanh giặc Mỹ xâm lược ra khỏi đất nước.

 Noi gương các đồng chí, đồng bào trong BẤT KHUẤT, chúng ta hãy sống sao cho xứng đáng làm Người, giương cao ngọn cờ trăm trận trăm thắng của Đảng ta, theo tiếng gọi của Hồ Chủ tịch, thừa thắng xông lên đánh bại quân thù, bảo vệ cuộc sống, bảo vệ con người, bảo vệ non sông đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ hòa bình cho nhân loại.

 Tháng 5 - 1969

 HÀ HUY GIÁP