Bất Khuất
Nguyễn Đức Thuận
www.dtv-ebook.com

Lao Gia Định "Trung Tâm" Thủ Đức Và Tổng Nha

Sau hơn một tháng bị tra tấn, đồng chí Nguyễn Đức Thuận phải sống cuộc đời xà lim hai mươi bảy tháng cơ cực, tinh thần luôn luôn căng thẳng vì phải suy nghĩ đối phó với kẻ thù. Bọn ác ôn liên tục khai thác, đồng chí Thuận vẫn giữ vững tinh thần. Có thời cơ thuận lợi, đồng chí tranh thủ làm công tác địch vận, uy tín ngày càng tăng.

Bên ngoài, Đảng đã bắt được liên lạc với đồng chí, nhiều lần bố trí kế hoạch vượt ngục, nhưng không thực hiện được. Có khi thời cơ thuận lợi, nhưng tuân theo lời Đảng, đồng chí không mạo hiểm vượt ngục. Trong tù, ở hoàn cảnh bị giam hãm o ép, đồng chí luôn nghĩ phải làm việc giúp ích cho Đảng. Hễ có dịp, đồng chí tranh thủ gặp gỡ anh chị em tù hỏi han nắm tình hình, làm tổng kết kinh nghiệm chống khủng bố trắng của địch. Hầu hết thời gian, đồng chí dành làm bản tổng kết, kịp gửi một đồng chí được trả lại tự do mang ra nộp cho Đảng. Nắm được mọi âm mưu khủng bố của địch, đồng chí Thuận ngày đêm suy nghĩ tìm biện pháp đối phó, giúp cho những đồng chí bị bắt giữ vững được lập trường, giữ gìn được khí tiết, bảo vệ được đội ngũ.

Ở P42, đồng chí Thuận trữ rất nhiều thứ: vải, kim, lưỡi dao cạo, hộp, gậy sắt, kéo... dùng cho sinh hoạt và giấu rất khéo địch không thể mò ra. Cũng ở đây, đồng chí chuẩn bị tự sát. Phải phấn đấu hết sức bảo vệ khí tiết, nhưng đồng chí cho rằng phải phòng ngừa mọi mặt, nếu cảm thấy không vững thì phải tự sát, mặc dầu đồng chí hiểu rằng tự sát là sai, là tiêu cực. Đồng chí đã gạt bỏ được ý nghĩa tự sát trước khi rời P42 và xác định rõ ràng: phải ráng đứng vững đến phút cuối cùng, đúng đắn ngay cả trong cái chết.

Tháng 10-1958, tôi dời hẳn P42.

Sáng ấy, chúng vào gọi tôi ra, dặn mang theo hết quần áo. Đi đâu? Tôi lập tức đặt câu hỏi.

Ngoài sân, tù đã ngồi kín cả. Mấy chiếc cam nhông nhỏ rì rì nổ máy. "Đi Gia Định rồi!". Óc tôi thoáng nghĩ. Đây toàn xe cam nhông nhỏ, không phải loại xe du lịch hay gíp của P42. Số xe VN. tức là số xe các cơ quan ở cấp "trung ương" như P42, nhưng mãi bây giờ, tám giờ sáng, xe mới tới đón. Như vậy, không thể đi xa,

chỉ loanh quanh Sài Gòn và có nhiều khả năng là Gia Định. Quả nhiên, sau khi chúng tạt Pê Ét Ơ (1)làm số phui (2)xong, chúng tôi bị đưa về nhà lao Gia Định. Nơi này, biển ngoài cửa đề Tỉnh đoàn bảo an, trong là nhà lao. Vào cổng rồi đi hun hút một đoạn đường hẻm dài và chui qua bốn tấm cửa sắt mới tới chỗ nhốt tù.

-----

(1) Pê Ét Ơ: nói theo tiếng Pháp, ba chữ P.S.E. nghĩa là Ty đặc cảnh miền Đông (Police spéciale de l'Est).

(2) Làm số tù, gồm các việc ghi tên tuổi, quê quán, v.v...

Đưa tù đi khỏi P42, địch sửa lại nó thành một sào huyệt giết người hiện đại nhất. Sau lần cửa này, P42 có hầm a xít, chỉ việc ẩy người xuống là phi tang, có đường ngầm thông ra chuồng cọp Sở thú, chỉ cần tống người xuống rồi thả cọp đói vào, cho người và cọp gặp nhau là gọn chuyện. Xà lim xây dưới mặt đất hết, tù như ở

âm phủ.

Trưa hôm đầu tiên đến Gia Định, chúng tôi ngồi ăn cơm ở sân cứ lê vào gần cửa các phòng giam. Mấy anh đứng trong song sắt, nhân lúc bọn gác không có, hỏi vọng ra:

- Đâu tới?

- Pêcarăngđơ!

Tình cờ có anh BĐ trong số anh em hỏi nọ. BĐ biết tôi từ hồi kháng chiến, tôi không biết anh. Thấy tôi, BĐ báo ngay với liên chi ủy nhà lao. Liên chi ủy phân công luôn một đồng chí thường vụ cùng ở "xan" B với tôi giúp đỡ tôi. Tất cả những việc này đều làm bí mật, tôi không hay.

Hôm ấy, tôi đang khiêng thùng "heo" (3)đi đổ, chợt anh BĐ ngồi phơi nắng ở bên hè, hỏi:

-----

(3) Bọn giám thị nhà tù Gia Định thường bớt thịt ăn của tù cho vào thùng mang ra. Anh em tù gọi là thùng cứt là thùng heo để chửi chúng.

- Thịnh bên Pêcarăngđơ phải không?

- Phải! Tôi đáp và ngợ: sao lại hỏi như vậy? Có ý gì? Nào biết anh BĐ hỏi thế để báo đồng chí bí thư liên chi ủy gặp tôi cho chắc chắn.

Lát sau, đổ thùng heo xong, ra bể nước rửa tay, tôi thấy một người lạ mặt, cao gầy, vẻ ốm yếu, đến bên. Người này bỗng cất giọng miền Trung, rất thấp:

- Tôi là B trước đây có biết anh, bây giờ anh em chỉ định làm bí thư liên chi ủy nhà lao, tôi gặp anh bữa nay để anh nhận mặt, sau có việc gì thì trao đổi với anh.

Tôi im lặng.

Người này tiếp:

- Lúc anh chưa bị bắt, tôi đã biết anh. Đến khi anh bị bắt, anh Ba lại giao tôi lo việc giải thoát cho anh.

Tôi vẫn im lặng.

Người này lại tiếp:

- Kế hoạch giải thoát ấy thế này: bên... tìm cách cho anh ra P42 một cách hợp pháp rồi... rồi... Người này nói một số việc chuẩn bị cụ thể vượt P42 cho tôi tin.

Tôi vẫn im lặng, nhưng trong bụng dạ xao xuyến lắm rồi. Ra chính người chuẩn bị cho tôi vượt P42 một lần khác nữa là đồng chí bí thư này đây. Giá như khi thường, tôi đã ôm chầm lấy đồng chí.

Về đến "xan", tôi hỏi một vài anh em quen về đồng chí bí thư, nhất là về thời gian đồng chí ở trong tù. Được biết đồng chí rất tốt. Ôi chao, tôi mừng rơn. Thôi, gặp tổ chức rồi, gặp Đảng rồi. Người tôi xốn xang, tưng bừng. Một niềm phấn khởi lạ thường, thứ phấn khởi lúc sắp được hành động, sắp được thực hiện một việc mình ao ước từ lâu, cứ như từng đợt sóng dội lên trong lòng tôi. Từ nay, thế là tôi bắt đầu lại được đem năng lực của mình ra đóng góp vào công việc chung của Đảng, từ nay tôi bắt đầu lại được phục vụ, được chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng.

Như hiểu tâm trạng tôi, đồng chí bí thư lại tìm tôi. Ở "xan" A, nhưng đồng chí thừa lúc "xan" B ăn cơm đã lén ra. Hai anh em ngồi bên miệng cống nói chuyện.

Tôi hỏi luôn:

- Về âm mưu địch bắt tù học tập "tố cộng", chào cờ, "ly khai", chủ trương của Đảng thế nào, anh rõ không?

- Cái ấy, Đảng đã có chỉ thị...

- Chỉ thị sao? - Tôi hỏi dồn.

- Phàm là đảng viên phải chống!

- Đúng quá! - Tôi khẽ reo... - Đúng quá! Chỉ thị cụ thể, anh nói kỹ cho tôi nghe với.

- Cụ thể ra sao, tôi cũng không hay đâu. Chỉ biết tinh thần là bất luận thế nào cũng phải chống các cái đó, đồng thời phải bảo vệ cơ sở, phải không cho quân thù tách rời kháng chiến với cộng sản.

Gặng hỏi mãi, đồng chí cũng không nói được hơn, chúng tôi chia tay nhau.

Đối với tôi, đây là một cuộc gặp gỡ đáng nhớ. Nói sao cho hết sự vui mừng của tôi. Nỗi băn khoăn canh cánh bấy lâu trong lòng tôi đã được Đảng gỡ cho rồi. Những điều tôi nghĩ không trái với tinh thần chỉ thị của Đảng.

Tôi đã có kinh nghiệm: ở trong tù hay ở nơi bị mất liên lạc với tổ chức, bất kỳ chỉ thị, chủ trương nào do một cá nhân truyền đạt, mình cũng phải lắng nghe với một thái độ phân tích chu đáo. Thường thường người truyền đạt hay trình bày theo ý chủ quan của mình. Ở trong tù, đấu tranh gay gắt giữa sống và chết, điều này càng hay xảy ra. Anh sợ đấu tranh, anh chỉ nhấn cái mặt khôn khéo, tranh thủ, nhẹ cái mặt tích cực chống địch. Đằng này, nghe đồng chí bí thư, tôi thấy tinh thần truyền đạt là kiên quyết chống âm mưu của địch, tinh thần ấy phù hợp với lập trường và nguyên tắc tư tưởng của Đảng: không thỏa hiệp, không đầu hàng... Suy nghĩ như vậy, tôi rút ra kết luận: Một, đồng chí bí thư truyền đạt rất trung thực chỉ thị của Đảng. Hai, đã nhận được chỉ thị của Đảng, tôi phải có nghĩa vụ chấp hành, có nghĩa vụ phổ biến sâu rộng cho mọi đảng viên trong tù cùng biết, cùng chấp hành.

Nhưng một lúc sau, tôi lại băn khoăn. Ừ, chống thì đúng là chống rồi, nhưng chống thế nào đây?

Chẳng có những đồng chí đã từng nói: nhận chào cờ, học tập v.v... để tránh khủng bố, chống bằng những hình thức tiêu cực cũng là chống đấy sao? Chỗ này chỉ thị lại không nói, ấy mới khó.

Tôi lại hỏi đồng chí bí thư, nhưng chỉ được mỗi một câu: "Không rõ!"

Cứ để mập mờ thế này mãi chăng? Lúc này là lúc cần đến tinh thần trách nhiệm, tinh thần chủ động của đảng viên đối với việc chấp hành chỉ thị của Đảng đây. Tôi đề nghị liên chi ủy cho tôi được dự thảo nội dung cụ thể của chỉ thị chống chào cờ, học tập "ly khai". Tôi nghĩ: "Không thể bó tay ngồi chờ chỉ thị cụ thể của Đảng trong khi ở nhiều nơi kẻ thù đang bắt các đảng viên ta chống lại Đảng. Bây giờ, trước mắt cần vạch gấp một kế hoạch cụ thể chống lại địch như thế nào để bảo toàn khí tiết đảng viên, bảo toàn uy tín của Đảng. Căn cứ tinh thần chỉ thị của Đảng mà vạch ra, sau này đúng hoặc sai như thế nào, sẽ có Đảng kiểm điểm".

Và tôi thảo nội dung chỉ thị bảo vệ khí tiết, bảo vệ cơ sở.

Do đã tổng kết tình hình đánh phá cách mạng của địch, tôi có thể nghĩ ra không vất vả lắm một bản chỉ thị gồm mấy điểm như sau:

Một, vạch rõ tính chất phản động và yếu hèn của ngụy quyền Sài Gòn. Đồng thời phân tích sự câu kết giữa đế quốc Mỹ và bọn địa chủ phong kiến, tư sản mại bản và các phần tử phản động khác ở miền Nam. Trong điểm này, cần nêu bật tiền đồ tất thắng của cách mạng và tính chất đấu tranh quyết liệt một sống một chết giữa ta và địch. Cuộc đấu tranh gay gắt này đòi hỏi nhiều hy sinh.

Hai, vạch âm mưu đánh phá của địch, đánh phá cả về tổ chức và về chính trị ở trong nhà tù.

Ba, phân tích các vấn đề khí tiết đảng viên và giữ vững uy tín cách mạng. Trong điểm này, nhấn mạnh rằng uy tín của cách mạng vô cùng rộng lớn, cái thế của cách mạng đang phát triển, gắn chặt với tiền đồ của dân tộc và tiền đồ của cách mạng thế giới. Đánh giá lực lượng ta và lực lượng địch không thể chỉ nhìn số lượng đơn thuần hay nhìn một hoàn cảnh cá biệt nào, ví dụ: ở trong tù, về thế, về số lượng, ta là yếu, là ít. Nhưng nhìn cái thế chung đi lên của cách mạng trong và ngoài nước, nếu phát huy cái ưu thế tuyệt đối của người cộng sản bị bắt vào tù là tinh thần bất khuất của chủ nghĩa anh hùng cách mạng thì dẫu ở tù, ta cũng có khả năng thắng địch và nhất định thắng. Ở tù, phá được âm mưu của địch là thắng, dù phải hy sinh.

Trong điểm này, tôi nhớ mãi câu giải nghĩa khí tiết đảng viên: "Khí tiết đảng viên như bông hoa trước ngực, hương thơm muôn thuở...". Sau này, ở Côn Đảo, nhiều đồng chí rất thích câu đó.

Bốn, nêu ra những phương thức đấu tranh chống lại âm mưu của địch. Bất cứ đảng viên nào cũng phải cố gắng phấn đấu chống mặt đối mặt, tức là chống tích cực nhất, chống thẳng thừng. Đứng trước quân thù, nói hẳn hoi rằng: "Ta là đảng viên, ta không học tập "tố cộng", ta là đảng viên, ta chết cũng không "ly khai" hàng ngũ cộng sản". Đảng viên cần giáo dục, tuyên truyền quần chúng cùng chống. Nếu quần chúng cùng chống chính diện thì càng nêu cao uy tín của Đảng, càng đánh bại được âm mưu của địch. Trước sự đánh phá ác liệt của địch, hàng ngũ bị phân hóa, những ai không chống được chính diện thì phải tập hợp lại thành một phong trào tiếp tục đấu tranh chống địch bằng các hình thức thấp như chống học trong lúc học, chống chào cờ trong lúc chào cờ v.v. .. đấu tranh đòi cải thiện đời sống, cải

thiện chế độ nhà tù, dần dần chuyển lên đấu tranh chính diện.

Năm, nói rõ cuộc đấu tranh trong tù là một bộ phận của sự nghiệp đấu tranh cách mạng, tính chất của nó hết sức ác liệt, nó quan hệ tới vấn đề sống và chết của cá nhân đảng viên, cho nên Đảng kêu gọi đảng viên nỗ lực chiến đấu bảo toàn khí tiết, bảo toàn uy tín của cách mạng.

Nội dung này, tôi nghĩ liền ba ngày đêm. Tôi biết rồi đây nó sẽ phổ biến đi bằng cách truyền miệng cho nên tôi cố gắng thảo thật ngắn gọn, dễ nhớ và không để cho người nghe có thể hiểu thành hai ý. Tôi cân nhắc từng chữ. Dập xóa trong đầu cẩn thận. Ví dụ: chữ "chống" thế nào cũng phải kèm chữ "tích cực" vì chống có ba bảy đường chống.

Tôi mời đồng chí thường vụ liên chi ủy lại một góc nhà. Tôi nằm dài theo một chân tường, đồng chí ấy nằm dài theo một chân tường khác, đầu chúng tôi quay vào nhau và tôi đọc, đồng chí ấy ghi. Tôi đề nghị liên chi ủy nếu chấp nhận nội dung này, thì sửa chữa, bổ sung và cho phổ biến như nghị quyết của liên chi ủy. Việc thảo tài liệu này là việc chung của liên chi ủy, mỗi cá nhân chỉ có nghĩa vụ thực hiện nghị quyết mà thôi.

Thảo luận xong, liên chi ủy cho tôi biết: "Liên chi ủy đã thông qua nghị quyết bảo vệ khí tiết, bảo vệ uy tín cách mạng. Liên chi ủy chủ trương phát động toàn thể đảng viên học tập nghị quyết này".

Nhà lao Gia Định là một nơi tạm giam tù của Tổng nha cảnh sát công an. Tù các tỉnh thường về đây rồi mới chia đi các nhà lao khác cho nên nhà lao Gia Định thành một trung tâm học nghị quyết bảo vệ khí tiết; sau khi học, anh em tù đem đi phổ biến được đến khắp mọi nơi.

Ôi, tả sao cho hết những giây phút xúc động của tôi khi thấy các đồng chí ta quây quần từng nhóm, từng nhóm học tập nghị quyết của liên chi ủy. Cơm xong, mọi thứ cờ, cờ tướng, cờ gánh, cờ chân chó... đủ cả, bày la liệt, đây một bàn, kia một bàn, túm năm tụm ba lại, tay đẩy quân cờ, mồm thảo nghị quyết.

Anh em tù ở Gia Định đã học thuộc lòng toàn văn nghị quyết. Và nghị quyết bảo vệ khí tiết, bảo vệ uy tín cách mạng theo người tù Gia Định đi đến tất cả các nhà lao ở miền Nam, phất cao mãi ngọn cờ bất khuất của những người cộng sản.

Khi ra Côn Đảo, tôi lại được nghe anh em ở đây thuộc từng câu nghị quyết. "Khí tiết người đảng viên như bông hoa trước ngực, hương thơm muôn thuở...". Câu ấy gần như một châm ngôn, ngày ngày anh em nhắc tới. Địch cũng biết và chúng cũng gọi đó là "chỉ thị bảo vệ khí tiết". Chúng ngỡ chỉ thị đó ở ngoài gửi vào và chúng rất cay. Đánh thế nào cũng không tìm ra mối. Tù nào cũng thuộc. Đánh lại càng thuộc. Chỉ thị đã vào tim, vào óc đảng viên.

Không khí trong "xan" B từ lúc học tập chỉ thị có khác. Anh em vui hơn, đoàn kết hơn. Đối với bọn nhân viên địch, thái độ của anh em đàng hoàng hơn. Có một đồng chí không như vậy. Rầu rầu cả ngày. Hay thở dài một mình.

Anh tên là Q bị bắt ở Bình Thuận, vào tù thường giữ kẽ với mọi người. Đoán anh có vấn đề, tôi la cà làm thân. Tôi thấy ái ngại cho anh. Thương anh nữa.

Có lẽ vì tôi chân thành, sau vài ba lần trò chuyện, anh Q nói thật với tôi tất cả. Anh bị bắt đã trót khai báo. Khai báo tuốt! Và anh coi đời anh như thế là bỏ đi rồi.

- Tôi bây giờ hết nhẵn, anh ạ. Không còn một chút gì nữa!

- Có thật như vậy không? Tôi hỏi.

- Cũng có đồng chí bảo tôi: "Thôi làm lại, thua keo này bày keo khác, buồn chi lắm thế!" nhưng tôi xấu hổ vô cùng. Tôi tự tay phá đổ tất cả, tôi buồn lắm, anh ơi! - Anh Q nhăn mặt nói.

Tôi nói:

- Khai báo là có lỗi lớn, không thể ví với chuyện được thua thông thường mà nói "thua keo này bày keo khác". Chẳng lẽ khai báo keo này xong, lại bày keo khác ra để rồi lại khai báo nữa hay sao? Tôi không tán thành nói như thế. Không làm anh yên tâm đâu. Anh cũng không dễ tự xoa bằng câu đó đâu. Trong vấn đề chính trị, cái quan trọng nhất là phải biết gấp gấp rút ra bài học và gấp gấp ngăn ngừa sai lầm...

Tôi trình bày cho anh Q thấy rõ sự nghiêm trọng của sai lầm khai báo. Khai báo đến cái mức của anh thì khá nặng, rất nặng. Anh ăn năn, đau khổ, điều đó tất nhiên. Trong đời anh, anh sẽ còn nhiều lần nghĩ lại sai lầm này, còn nhiều lần ăn năn đau khổ nữa. Nhưng thái độ bi quan ủ rũ như bây giờ của anh cũng không đúng. Nó có hại. Đã sai lầm lại lao vào sai lầm nữa. Vào tù mà không còn chí khí thì khó sống lắm, tôi đã có kinh nghiệm, tôi biết. Kẻ thù mong ta tiêu ma chí khí - thằng Cẩn đã nói ra mồm: "Đánh phá Việt cộng kỳ cho tan nát về khí tiết và hủy hoại về tâm hồn" đấy - mà mình cứ rũ rượi, sầu thảm thế này, kẻ thù nó sướng lắm chứ. Mình có để cho nó sướng được không? Có để cho nó lại thắng mình nữa không? Chắc không! Vậy là anh vẫn còn một chút đó! Đâu phải mất hết! Cái một chút còn lại ấy, anh phải giữ gìn và phấn đấu thực hiện, tiến lên...

Tôi nhắc anh Q rằng trong cuốn Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Mác, Ănghen có viết đại ý: đối với chủ nghĩa tư bản, dĩ vãng thống trị hiện tại, nhưng đối với chủ nghĩa cộng sản lại là hiện thực thống trị dĩ vãng. Từ nguyên lý ấy suy ra có thể thấy người cộng sản phải hoạt động cho nhiệm vụ cách mạng trước mắt. Người cộng sản không thể tiếc cái xưa, thất vọng vì cái xưa hay không thể ngồi hứa suông "tôi sẽ thế này, tôi sẽ thế nọ" mà không làm gì cho nhiệm vụ trước mắt cả. Nhiệm vụ trước mắt ở trong tù là gì? Là đoàn kết chống âm mưu của địch...

- Nhưng anh em không tín nhiệm tôi. Anh Q. nói.

- Anh càng không làm gì, anh em càng không tín nhiệm. Anh nhận ra sai lầm, căm thù địch đẩy anh tới chỗ sa ngã, anh đấu tranh chống lại nó, ai không tín nhiệm? Anh nên cẩn thận kẻo chẳng những dĩ vãng sai lầm mà hiện tại cũng sai lầm nốt. Không làm được nhiệm vụ hiện tại thì không thể có tương lai, đấu tranh cho hiện tại cũng là đấu tranh cho tương lai, anh ạ!

Anh Q im lặng và bắt đầu sà vào chỗ đông người. Anh bắt đầu cười - tuy còn gượng - rồi bắt đầu nhận việc này, việc nọ của tập thể.

Anh LVS. bị bắt cùng vụ với anh Q thấy vậy hỏi tôi: "Anh nói chuyện với anh Q thế nào mà có hiệu quả vậy?". Tôi nói: "Trước nhất là vì tôi căm thù địch và thật thà thương anh Q là người đã bị quân thù làm hoen ố cuộc đời, thứ hai là vì tôi không muốn một ai còn chút tinh thần chống địch lại không được huy động vào hàng ngũ. Anh Q buồn vì lương tâm cắn rứt đó thôi, trong cái buồn đó có mặt nào tiêu cực, nhưng nó vẫn bao hàm một tình cảm đối với cách mạng và tinh thần căm thù địch".

- Nghe anh nói chuyện với anh Q thấy rất ít nói tình hình cách mạng đang sáng sủa để động viên, sao vậy? Anh L.V.S. hỏi.

- Động viên thuần túy bằng tình hình, chẳng may tình hình tạm thời xấu đi thì lấy gì mà động viên? Chỉ lấy tình hình thuận lợi ra động viên, không nói nguyên tắc tư tưởng và tình cảm cách mạng dễ làm cho người ta ỷ lại vào tình hình, sinh ra tâm lý dễ làm khó bỏ. Với lại, anh ấy như thế nói tình hình anh ấy càng thêm cực...

Anh LVS. đồn đi thế nào, anh em từ đó toàn phân công tôi giúp đỡ, động viên những đồng chí mắc sai lầm khi bị bắt hay ở tù như anh Q.

Tôi luôn luôn tự nhắc không được mong hưởng thụ hơn người. Ở trong tù, mong hưởng thụ hơn người có hai cách: đầu hàng địch hay ăn chặn của đồng chí. Mọi việc, mọi kỷ luật do tập thể đề ra, tôi nhất định tuân theo. Vì chật, lệ "xan" B đặt ra ai mới vào phải nằm sát bên cầu tiêu. Cầu tiêu ở ngay trong "xan", là một thùng sắt cắt đôi, trên miệng ngáng hai thang gỗ để ngồi, không có nắp. Nằm giữa phòng, đã thấy mùi hôi thối lộn mửa, nói gì đến ở sát bên. Anh em dành chỗ khác cho tôi, tôi cứ theo đúng lệ, nằm ngay bên cầu tiêu, đợi có người mới tới, tôi mới xích vào trong.

Bây giờ ở đây địch chưa giở trò "tố cộng". Tù bị cấm cố chặt trong "xan". Ngày, ra sân hai bữa cơm, mỗi bữa dăm phút. Còn thì cứ mù mịt trong nhà. Mái thấp, không cửa sổ. Cha, cái nóng mới kinh khủng làm sao! Mỗi "xan" đáng giam bốn năm chục tù, chúng lèn đến hơn một trăm. Chật quá, tù phải thay phiên nhau đứng cho người khác có chỗ ngủ. Sau đó, anh em có sáng kiến giao thêm việc cho những người đứng chực chỗ: quạt! Cầm quần áo giũ mạnh cho có gió đỡ ngột. Nửa đêm thức giấc, ngó nhìn anh em đồng chí, xếp chật như củi, nhợt nhạt li bì, mấy chục con người khác mặt mày hốc hác, trần trụi giơ xương đứng quạt một hàng dài dưới bóng điện lù mù, thấy cái cảnh thê thảm này mà đau lòng, căm tức.

Lúc này có những anh em mới bị bắt vào đây thông báo cho một số tin. Tình hình xây dựng ở ngoài Bắc rất đáng phấn khởi. Đồng chí thông báo có trí nhớ khá lắm. Nhớ từng con số. Xây mấy trường đại học? Đại học Y khoa có bao nhiêu sinh viên? Các nước mới độc lập khâm phục ta về cái việc dạy đại học bằng tiếng mẹ đẻ... Anh tả nhà máy cơ khí Hà Nội rất rành, như thể vừa ở đó bước ra xong. Các thứ sản phẩm của nhà máy này về mặt chính xác đạt những bao nhiêu, bao nhiêu (lại dẫn con số). Máy móc hiện đại thế nào, có thứ máy bào gì mà cái bàn máy để vừa lọt một chiếc ô tô... Tóm lại, miền Bắc đang thẳng tiến tới chủ nghĩa xã hội.

Về quốc tế, anh em cho biết kết quả hội nghị các đảng ở Mátxcơva năm 1957. Ai cũng nhớ bốn đặc điểm và năm nguyên tắc trong bản tuyên bố.

Nhưng tôi sung sướng nhất là khi được phổ biến về đường lối cách mạng miền Nam.

Từ đầu năm 1956, những lần tôi gặp anh Ba, anh đã nói cho nghe vài luận điểm cơ bản (lúc ấy có nét đã rõ, có nét còn mờ). Bây giờ đường lối của Đảng đang biến thành sức mạnh vật chất thay đổi cục diện đấu tranh giai cấp và giải phóng dân tộc sang cái thế có lợi cho ta. Miền Nam phải làm cách mạng giành chính quyền. Điểm này đối với tôi thật là thấm thía. Từ lâu, tôi cũng đã suy nghĩ về con đường tiến lên của cách mạng miền Nam. Bọn Việt gian đầu sỏ ngày một phản động, ngày một lệ thuộc vào Mỹ. Chúng phản đối tổng tuyển cử hiệp thương thống nhất đất nước, chúng đàn áp nhân dân, âm mưu Bắc tiến... Nhân dân miền Nam đã đấu tranh. Nhưng phương hướng, phương thức...? Nghĩ lung mà chưa thấy. Khi được nghe phổ biến, tôi khoái nhất điều này.

Hôm nghe phổ biến, nằm thao thức suốt đêm.

***

Mồng sáu tết âm lịch năm Kỷ Hợi (1959) địch chuyển đồng chí Nguyễn Đức Thuận đi Ôma - tức Tổng nha cảnh sát trung ương - làm lại hồ sơ. Ở Ôma, bọn địch lại hăm dọa, dụ dỗ, tra tấn, nhưng đồng chí vẫn không hề khai một lời nào. Chừng một tháng chúng đuổi đồng chí về Gia Định. Ngày 20-3-1959 địch đưa đồng chí đi Thủ Đức. Tại đây địch đang bắt tù chính trị học tập "tố cộng". Chiều hôm đó, mấy người trong "ban đại diện" và "ban học tập" của "trại" E đến báo đồng chí "học". Đồng chí không "học" vì không thể ngồi nghiêm chỉnh nghe chúng chửi Đảng, đề cao chúng. Tối hôm ấy, đồng chí hỏi dò biết được anh em Gia Định đến Thủ Đức chống "học" công khai, gay gắt từ đầu, bị địch nhốt hầm khói. Đồng chí Thuận chủ trương chống "học" theo cách của mình, tranh thủ tìm hiểu tình hình. Hết người của địch đến dụ, lại "người của ta" tới khuyên. Đồng chí đấu tranh phê phán những quan điểm sai lầm của các đồng chí Thủ Đức. Đồng chí không ở tổ nào, cứ "xé rào" liên hệ với anh em, và được biết: phong trào chống "học" không lên được vì "Trung tâm ủy ở đây chủ trương học". Cuối cùng anh Đ bí thư Trung tâm ủy gặp đồng chí Thuận khuyên "học", đưa ra những lý lẽ "trường kỳ mai phục", "tránh bộc lộ lực lượng", "hòa mình với quần chúng" v.v... Đồng chí Thuận giữ vững lập trường nguyên tắc của Đảng đấu tranh lại, phân tích sai lầm của Trung tâm ủy. Suy tính kỹ, đồng chí không thi hành nghị quyết của Trung tâm ủy, kiên quyết giữ uy tín của Đảng và khí tiết đảng viên. Địch đánh hơi biết chuyện, chúng đe dọa, nhưng đồng chí không sợ. Đang băn khoăn tìm người để bàn bạc thì may gặp được hai anh Sáng, Hỷ mà địch vừa đưa ở Gia Định tới nhốt ở "trại" E. Ba người bàn bạc thống nhất chủ trương, tìm cách phổ biến cho anh Đ và một số anh em khác "chỉ thị chống "ly khai", chống chào cờ, chống học tập "tố cộng" và kiên quyết bảo vệ cơ sở như liên chi ủy nhà tù Gia Định đã quyết định. Mặt khác cố gắng tranh thủ anh Đ và Trung tâm ủy kiểm thảo chủ trương, đường lối công tác của các anh ấy trong thời gian qua. Kiểm thảo rồi, Trung tâm ủy nhận thấy chủ trương sai lầm, hữu khuynh, dần dần lãnh đạo anh em đấu tranh với địch, đòi giải quyết yêu sách cải thiện đời sống, tiến tới đòi bớt giờ học "tố cộng".

Đến đây, địch bắt mấy chục anh em "trại" E tra tấn và bắt đồng chí Thuận nhốt hầm khói. Ở hầm khói mười bốn đồng chí tổ chức học tập chỉ thị bảo vệ khí tiết. Năm chị ở xà lim bên cạnh đòi học, ghi chép giữ làm tài liệu. Địch khám xét, bắt năm chị ra bót Hàng Keo tra tấn...

... Quá nửa đêm, một thằng công an vào:

- Ông Thịnh đâu? Mang đồ đi!

Tôi xách cái túi con ra.

Chẳng thà chết ở giữa biển khơi, chứ lại chết đuối trong đĩa đèn thế này, chán thật! Chỉ vì cái chuyện không cảnh giác rất dại dột kia mà để xảy ra nông nỗi gì thì tôi ân hận lắm đây. Chết chuyến này không thoải mái tí nào cả. Thôi đành chịu vậy, chứ biết làm sao bây giờ, lại một phen nữa, sống chết với quân thù... Vừa đi dọc hành lang, tôi vừa nghĩ lan man. Hình ảnh tra tấn dựng lên ngay trước mắt. Nghe rõ mồn một tiếng tôi dặn các chị hồi nọ: "Chớ ghi, chớ ghi!". Thú thật, tâm trạng tôi lúc này có phần ngao ngán. Tôi giận các chị quá.

Xe chạy đến chợ Thủ Đức đỗ lại, thằng Quảng còng tay tôi vào cọc xe rồi để tôi ngồi một mình ở đó, nó dẫn bọn lâu la vào một tiệm gọi đồ nhậu nhẹt. Chợ đêm vắng ngắt. Mấy cái tiệm nhỏ trống hoác. Vài bóng người lượn lờ. Trai thì mật vụ, chỉ điểm, lưu manh. Gái thì điếm đàng, đĩ thõa. Tôi nhìn trước sau, định chúng hở cơ là tháo còng tẩu thoát.

Nhưng thằng Quảng đã huýt sáo mồm gọi một thằng vận áo bà ba đen đang lởn vởn gần đó lại rỉ tai. Thằng này đến bên xe, mở cửa leo lên, ghếch chân vào thành ghế đằng trước.

Mồm sặc hơi men, nó lè nhè dỗ tôi:

- Không có sao... không có... sao... sao... à, cái việc này yên trí, không... có sao... đừng chạy... hì hì!

Một lúc nó lại: "Rồi đâu lại vào đó, nghe, đừng chạy, không có... sao... sao... hì!"

Một đứa con gái mặc quần xa tanh trắng, áo cánh lụa trắng ưỡn ẹo qua. Thằng mật vụ say nhìn chằm chằm vào mặt đứa gái điếm. Đứa gái điếm liếc mắt đưa tình, rồi dẩu mỏ ỏn ẻn:

- Anh cho em ăn hủ tiếu với!

- Được thôi, mua cho em anh thì được thôi! Thằng này thò đầu ra kêu trống không:

- Này, làm cho cô đây một tô, nghe!

- Dạ, xin làm ngay.

Người đàn bà chủ tiệm dạ ran. Thằng này chắc hoành hành tác quái ở cái chợ này dữ lắm.

Đứa gái điếm chạy vào, cười rung rúc. Lát sau, trở ra, đi sát thằng kia:

- Tí nữa lại với em nhá!

- Ừ, em cứ về, tí nữa qua (4)tới! - Cái giọng say âu yếm díu lại.

-----

(4) Qua: ta.

Bức tranh xã hội đô thị miền Nam ban đêm đó!

Mấy chú bé đánh giày đeo hòm gỗ chạy giạt từ hè này sang hè khác. Những cái bóng lon ton. Một em đeo hòm đến bên cạnh xe, tò mò nhìn tôi, hai con mắt dò hỏi. Tôi mỉm cười. Hai con mắt khẽ nheo lại, thiện cảm. "Bây giờ trốn ra thì cháu này sẽ giúp được mình đây!" tôi nghĩ thầm. Cái bóng đen gầy mất hút sau một góc tường...

Xe lại chạy. Đi ngả Bình Lợi. Bắt đầu hết đèn hai bên đường. Cánh đồng tối om đầy gió. Nơi này tôi rất quen, thuộc làu từng ô mía, từng con đường, từng mô đất. Có dạo tôi đã nhắm về ở đây. Tôi như thấy lại các bờ mía, đất tơi và mát. Chỗ này đất rất tơi và mát. Nếu mà trốn được ở chỗ này? Bàn chân đã thấy rờn rợn cái cảm giác của đất tơi và mát. Nhiều ý nghĩ, nhiều cảm giác, sự vui buồn, tự nhiên cũng chen lấn hỗn độn trong tôi. Bị giam ở ngục kín mãi, bây giờ ra gặp trời rộng đất dài, con người lâng lâng như vậy sao? Ánh đèn xa xa chiếu hắt lên trời và đặt những mảng vàng rợi, mịn màng trên cánh đồng thăm thẳm. Những bông hoa mía rực lóe lên từng chùm mềm phơ phất trước ngọn đèn pha rồi lại biến mất. Những hạt phấn hoa tựa hồ đọng sáng một lúc lâu. Đã có lần tôi đi trong một cái ruộng mía nào ở quãng này. Cũng cái bờ rào thấp kia! Không, ở đoạn trên nữa. Đoạn ấy có một cây cầu bằng ván gỗ. Từ cây cầu ấy vào nhà cơ sở tôi không xa... Có chấm lửa lập lòe trong cái bao la của đồng mía đêm. Nhà một nông dân hay đống lá mía khô bà con thường vun vào đốt lúc tối? Tôi tì tay bị còng lên thành xe, nhìn dọi vào đồng mía đêm như muốn thâu hết khung cảnh mênh mông này. Đất nước giàu thật! Sau này ở đây dựng nhà máy đường. Anh gì ở Gia Định thông báo tình hình miền Bắc có nói đến nhà máy liên hợp. Chắc to lắm? Chú bé đánh giầy sẽ vào làm ở đây... Những ý nghĩ nhẹ, gợi cảm thoắt ẩn, thoắt hiện trong óc tôi. Những ngọn mía vụt lóe lên lại tắt. Chợt hiện lên rất nhanh trước mắt tôi hình ảnh Đinh Tiên Hoàng cờ lau đánh giặc. Hình ảnh hùng tráng này, tôi tưởng tượng từ hồi còn nhỏ, mấy chục năm ròng quên đi, bây giờ trở lại. Ừ, những ngọn cờ lau rất giống hoa mía và những lá mía loang loáng kia giống các thanh gươm trường thật... Người bừng lên, sảng khoái. Gió lùa vào xe ào ào.

Tới cầu Bình Lợi. Đèn hai bên đường sáng trưng. Những ý nghĩ đột nhiên nhòa đi im ắng. Tôi như vừa ra khỏi một giấc mơ.

Xe thẳng tới bót Hàng Keo. À, cái ổ giết người này, ai lạ!

Chúng dẫn tôi vào ngay phòng điều tra.

Chị Trinh đang rũ rượi ở giữa phòng. Trán chị vỡ một miếng. Máu chảy dọc sống mũi, tràn qua hai môi xuống cằm, lăn mấy vệt ở cổ và ngực. Tóc chị rối xòa hình như ướt, thấy bết lại từng mảng. Quần áo rách như có người xé đều ra. Chúng đánh chị suốt từ chiều.

Tôi đến đứng ở một góc phòng. Thằng Xuân ác ôn hỏi chị Trinh:

- Ai đây?

Chị Trinh nhìn tôi không nói.

Xuân chìa tài liệu học tập của chị Trinh ra cho tôi coi rồi hỏi:

- Có biết gì đây không?

- Tôi không biết! Trong khi trả lời, tôi nghĩ rất nhanh: "Tờ giấy dán lại rồi, nhưng đọc không rõ mạch lạc nữa, tốt lắm! Việc này không đáng ngại. Địch không thể khai thác được gì hơn. Chẳng qua một bản viết chì lõm bõm vài câu "chống học", "bảo vệ khí tiết"... Nếu chị Trinh nhận là chị tự nghĩ ra và tự viết ra thì cũng thôi thôi, không có sao. Bây giờ làm thế nào mách được cho chị Trinh?".

Thằng Xuân quát:

- Không biết! Còn ngọt còn không biết!

Tôi nói luôn:

- Khốn nạn, cái này nếu của ai, cứ nhận là xong, chứ có gì đâu mà chối!

Câu này tôi cốt để chị Trinh nghe.

Xong, tôi bồi theo một câu:

- Đây không phải là văn kiện gì ghê gớm, viết bằng bút chì, chẳng có đầu mà chẳng có đuôi...

Câu này cốt ảnh hưởng đến thằng Xuân. Gợi ý chuyện này không có gì quan trọng cả, làm to đã

không đến đâu lại có thể phiền lụy thêm, cho qua đi là tốt nhất.

Thằng Xuân bập ngay lấy:

- Đúng, chỉ cần biết của ai thôi... Biết không?

- Tôi không biết! Tôi đáp.

Chúng lôi chị Trinh vào một góc, kéo tôi ra giữa phòng. Rồi dùi cui nện côm cốp vào đầu vào lưng tôi. Thoi, đạp, bẻ xương, lên gối, đủ ngón. Huỳnh huỵch một lúc rất lâu, chúng ngừng tay:

- Tại để con bé này ở đây cho nên nó không nói!

Điệu chị Trinh đi, chúng lại xúm vào tôi. Chúng đánh như đập đất. Chợt cửa phòng mở đánh thình. Thằng Đâu, ác ôn khét tiếng ở Hàng Keo, đạp cửa nhảy vào, rít lên:

- Mày không khai làm tao mất ngủ! Này...

Nó nhấc bổng chiếc ghế gỗ gõ (5)lên, giáng vào ngang sườn tôi. Tôi nghe thấy hai tiếng "ự" và "rắc" liền cùng một lúc. Thằng Đâu cứ thế gõ phang tới tấp. Mặt nó nhợt nhạt, những mụn trứng cá đầy trên mặt nó lại đỏ sần lên. Đánh đến lúc phờ ra, nó quẳng ghế, co chân thật cao song phi vào mỏ ác tôi rồi dựa lưng vào tường thở rốc. Người tôi có lẽ xương cốt rời giập hết!

-----

(5) Giống gỗ lim, có nhiều ở miền Nam

Xuân hét:

- Kêu con Trinh lên!

Tôi bị đánh đã mềm nhừ, nhưng nhìn chị Trinh vào, tôi vẫn thấy ái ngại, tội nghiệp quá. Một người con gái tuổi còn nhỏ, ốm yếu mà bị bọn súc vật này đánh đập thế kia.

Xuân hỏi chị Trinh:

- Tài liệu của ai?

Chị Trinh lặng im, không đáp.

Lòng tôi vô cùng thương xót người nữ đồng chí trẻ tuổi. Quân thù tàn bạo, man rợ đến bước này! Vấn đề này không quan trọng gì, tôi có nhận cũng không sao. Tôi nói:

- Đúng, tài liệu của tôi!

- Lấy ở đâu ra? Ai đưa? Thằng Xuân chồm lên.

- Tôi tự nghĩ ra. Tôi quen chị Trinh trong dịp đi cùng xe từ Gia Định về Thủ Đức. Về đây ở hai xà lim cách nhau một tấm cửa. Hồi một giờ trưa hôm nay, thấy hai bên đều ngủ yên mà chị Trinh thức, tôi gọi chị, nói cho chị ghi, bảo chị gặp ai thì nói lại cho biết để cùng chống học. Chiều thì các ông vào xét thấy...

Chúng ngừng đánh ngay. Chúng không muốn làm to chuyện thật. Vì có gì đâu? Chống học phải vào xà lim, vào xà lim lại tuyên truyền chống học. Có thế thôi!

Tôi bị còng tay giam ở Hàng Keo.

Lưng tôi bị dùi cui lõi sắt đánh tím rạn lên không sao nằm ngửa được. Hai bên sườn nắn thấy lún như trái cây ủng. Khi ra sân ăn cơm, tôi cởi áo mình trần, ngồi xoay lưng cho mọi người nhìn rõ. Bọn công an thấy lưng tôi cũng phải lắc đầu. Thằng Quảng chắc không muốn tôi tố cáo chúng nó, bảo tôi:

- Mặc áo vô, ông Thịnh!

- Mặc rát lắm!

- Sao để đến nỗi thế? - Nó kháy - Tại tuyên truyền chống người ta chứ gì?

- Tại các ông đánh dã man quá, chứ sao lại tại tôi!

Cái lưng tím lịm đến mấy tháng sau mới khỏi.

Ở Hàng Keo mấy tháng ròng toàn bị còng tay. Hai người một còng, tối ngày sáng đêm, không bao giờ mở. Khi ăn cơm người này cúi xuống và cơm xong, người kia mới lại cúi xuống và được.

Tháng 11 năm 1959, chúng thả tôi về Thủ Đức, nhốt "trại" kỷ luật. Chúng tôi biết sắp đi Côn Đảo đến nơi rồi.

Khuya ngày 19--12-1959, chúng gọi chúng tôi ra. Nhà bếp đang đỏ lửa, chúng tôi đi ngang qua nói với vào:

- Chào anh em, chúng tôi đi đảo. Chúc anh em mạnh khỏe, hoàn thành nhiệm vụ.

Tới cửa nhà lao, chúng tôi chào vọng vào nhà các vợ con binh lính, nhân viên địch:

- Nhà cầm quyền đem đày những người yêu nước chúng tôi ra Côn Đảo. Xin gửi lời chào đồng bào!

Ba mươi người chúng tôi ngồi một xe bịt kín. Trước sau chúng tôi, có mấy chiếc xe thiết giáp nghiến xích rầm rầm. Sau cùng là một chiếc cần cẩu. Thằng trung úy, phó quản đốc nhà tù Thủ Đức ngồi xe gíp đưa chúng tôi đi.

Tới rặng cây đường Hồng Thập Tự, rồi ra bến Ba Son. Xe chở tù đỗ kín sân Ba Son rồi. Thoáng thấy cái Pơgiô 203 của thằng Cò Nhượng và cái mặt nó hầm hầm ở bàn giấy giữa sân. Thằng này uống máu người không tanh, làm ăngkéttơ (6)ở bót Catina thời Pháp, nay vẫn tiếp tục nghiệp xưa giết hại những người cách mạng và đồng bào. Chúng tôi ngồi xếp hàng năm, cạnh bờ sông.

-----

(6) Điều tra viên. (Nhưng Cò Nhượng là kẻ phụ trách điều tra sở mật thám Nam Kỳ, đóng tại đường Catina).

Trời hửng sáng. Mặt sông lăn tăn. Mặt anh em tù nổi lên trắng bệch, hốc hác. Có tiếng người gọi tôi:

- Ông Thịnh!... Ông Thịnh!...

Trung úy Phạm Văn Quang! Vẫn đỏm dáng, chải chuốt, Quang từ chỗ tù Thủ Đức bước lại phía tôi: "Sao đó mà phải đi đấy? Ngoan cố lắm hả ông Thịnh?".

Tôi đáp:

- À, trung úy, chào trung úy. Đâu phải tại tôi, tại các ông đàn áp những người cách mạng.

Quang cười:

- Bây giờ ông chào tôi, sau này ông lờ đi đấy!

Thằng này hay tình cờ gặp tôi. Và gặp lần nào cũng săn đón hỏi chuyện, cũng bóng gió đến vấn đề này. Một hôm ở Thủ Đức, tôi đang gánh đất đổ bãi bóng rổ trong nhà lao, Quang về kiểm tra nhà lao đã cố tìm tôi. Hắn và tôi nhắc lại những câu đã nói ở P42. Nhưng có điều, lúc tôi mới nói: "Tôi sẽ..." hắn ngắt lời tôi, tiếp luôn: "Gặp ở Hà Nội nhá, ông Thịnh?". Hắn vẫn không quên dạm lại cái ý xưa. Tôi nói:

- Những người cách mạng chúng tôi là những người có thủy có chung.

Chúng tôi lần lượt xuống tầu.