Chiều chủ nhật ngày 29-7-1956, đồng chí Nguyễn Đức Thuận vào Sở thú Sài Gòn gặp liên lạc. Tình cờ thằng Lam Sơn (1)bắt gặp, chỉ cho địch bắt.
Bắt được đồng chí Nguyễn Đức Thuận, địch hý hửng tưởng sẽ khai thác được những tài liệu quan trọng, nắm được đầu mối để đánh phá phong trào cách mạng. Bước đầu chúng dùng mánh khóe dụ dỗ, mua chuộc. Nhưng kẻ địch đã lầm. Chức vị, tiền tài, xe hơi, nhà lầu, gái đẹp, tất cả không thể mảy may lung lạc tinh thần đồng chí Nguyễn Đức Thuận. Giai đoạn "đường mật" chấm dứt. Giai đoạn "máu" bắt đầu. Lũ ác ôn đánh, đánh không kể ngày đêm, rất bất ngờ. Các thứ dùi cui, gậy, cục mây quất vào người đồng chí như mưa. Bọn chúng thi nhau đấm, đá, đạp, lao báng súng vào ngực đồng chí, "lên gối" (2), bóp cổ, dận gót giày vào đúng tim, lấy bông tẩm ét xăng đốt các mạch máu và đường gân v.v... Bị lũ "đầu trâu mặt ngựa" đánh đập, thân thể đồng chí "mềm oặt như một tàu rau héo", đầy máu, các đầu ngón chân ngón tay giập nát, nhiều lần đồng chí ngất đi. Về phòng giam, khi tỉnh dậy, đồng chí chỉ nằm được một chiều, ở một chỗ mà ăn, ngủ, đái, ỉa v.v... Chết đi sống lại, đau đớn khủng khiếp, nhưng đồng chí không hề khai nửa lời, "im lặng hoặc không. Không biết, không quen, không có, không, không và không", quyết tâm thực hiện phương châm: quyết thắng, và lời dạy của Hồ Chủ tịch: "Trung với Đảng, hiếu với dân"...
-----
(1) Trong kháng chiến chống Pháp hoạt động cho ta, 1955 phản bội, làm tay sai cho Sở tình báo Mỹ.
(2) Bọn ác ôn vặn ngược tay đồng chí Thuận ra sau lưng cho người cúi gập xuống, rồi phóng ngược đầu gối vào mỏ ác.
... Tôi bước vào phòng điều tra rất vững vàng, tự tin. Tôi muốn nhìn thẳng, muốn cho cả người tôi toát ra cái ý chí: người tao, chúng mày có thể róc từng miếng xương, xẻo từng miếng thịt; tim tao, chúng mày có thể bóp cho nó ngừng đập nhưng óc tao, tinh thần tao, tinh thần cách mạng và bộ óc khoa học của người cộng sản, thì vạn kiếp chúng mày cũng không sai khiến nổi...
Lần này, chúng áp dụng cách tra tấn hoàn toàn mới thật. Tôi là người đầu tiên bị bọn P42 thí nghiệm cách này, cách tra tấn trường kỳ kết hợp với thẩm vấn liên hồi và đứng đèn. Chúng chọn hai mươi lăm thằng ở bên "phủ tổng thống", chỗ thằng Nhu sang, chia ra bốn nhóm. Mỗi nhóm làm hai ca ngày đêm, mỗi ca ba giờ, thay phiên nhau quần tôi không lúc nào ngừng. Trưởng nhóm là mấy thằng An, Ân, Lãm và một đứa tôi quên tên, toàn là sĩ quan tình báo đã học ở Mỹ, Nhật, Đài Loan, Philippin. Thằng nào cũng được nhồi sọ đủ các luận điệu phản động, đủ các mánh khóe xảo quyệt và đủ các thứ dã tâm. Về mặt thâm hiểm, điểu cáng, bất nhân, thì phải nhận rằng không đâu dạy giỏi bằng các trường tình báo Mỹ, không ai dạy giỏi bằng các "cố vấn" Mỹ. Qua mấy thằng An, Ân, Lãm này, ta thấy ngay được khoa học Mỹ đã đào tạo người hóa thú đầy đủ đến thế nào. Thật sự chúng là những người - thú, những con người mà phần thú vật thì suy nghĩ, hành động và phần người thì chỉ có ăn hút, hưởng lạc...
Nhóm thằng An làm việc với tôi trước tiên. Thằng này xưa là tri huyện đại lý Hoàn Long, Hà Nội. Nó có nghề hỏi cung nham hiểm lắm. Nó bắt tôi đứng chống hai tay vào tường, chân cách tường đúng bốn hàng gạch hoa, người đổ choãi về đằng trước. Tôi chưa kịp đứng yên trong cái tư thế quái gở này thì tự nhiên thấy mắt chói lóa. Hai ngọn đèn ở cách hai bên gáy tôi chừng một gang thình lình bật sáng trưng, mỗi ngọn mạnh đến năm trăm oát. Lập tức người tôi hầm hập lên ngay. Ánh đèn như khoan rọi tun tút, như phanh phui moi bới óc tôi. Đầu tôi lúc ong ong, lúc âm u, lúc co thít, lúc nở giãn, lúc đông đặc, lúc chảy loãng. Thật khó mà tả cái cảm giác này. Người tôi bứt rứt muốn hét lên. Mắt lóa ra từng vầng sáng nhức buốt.
Tôi toan lăn đùng ra đất, thây kệ chúng làm gì thì làm, chứ không đứng thế này nữa. Nhưng ngay lúc đó một ý nghĩ bỗng ngăn tôi lại: mình đã để chúng bắt được, ắt phải bị chúng tra tấn. Nó tra tấn mình là quyền của nó, mình không chịu cho nó tra tấn là quyền của mình, mình không chịu cho nó tra tấn cũng được, nhưng như vậy chọc tức nó, nó có thể giết mình sớm hơn... Đành chịu để cho nó tra tấn thôi vậy, không có cách nào khác bây giờ... Có cái cách tốt nhất là chịu đựng, làm cho chúng thấy cách nào của chúng, mình cũng không sợ, cách nào của cíung đối với mình cũng không ăn thua. Mình không đứng đèn thì thế nào chúng cũng bắt phải đứng bằng được mà rồi chúng có thể giết ngay mình được lắm. Với lại mình không đứng, chúng lại cho rằng mình sợ cái kiểu này. Hừ, cứ đứng chịu đựng mà đứng để cho chúng thấy thể xác của mình, tụi chúng làm gì cũng được, nhưng tinh thần của mình thì bất khả xâm phạm...
Đúng rồi, cố gắng chịu đựng, sống thêm giờ nào hay giờ ấy, sống thêm một giờ là thêm một giờ trực diện chiến đấu với quân thù.
***
Bọn chúng cất tiếng hỏi tôi. Những câu hỏi không bao giờ ngừng nữa.
Tiếng hỏi tới từ sau lưng, nhẹ nhàng:
- Hồi nhỏ có thương ông già, bà già không?
Tôi không trả lời. Tiếng hỏi lại lắp lại ngay, không ngừng một giây:
- Bà già ông đâu?
- Chết rồi.
- Ông già ông đâu?
- Chết rồi.
- Hồi nhỏ có thương ông, bà già không?
- Thương chứ.
- Ông đi học từ mấy tuổi?
- Quên rồi.
Tôi thường nói chệch đi cả. Sống thì nói chết, có thì nói không.
- Học lớp mấy?
- Lớp ba trường làng.
- Thầy giáo tên gì?
- Tên Trình - chẳng là vì trong nhà trường thường nói giáo trình thì chúng hỏi giáo gì, tôi nói luôn "Trình".
- Lúc ông lên năm, mẹ đi chợ có hay mua quà không?
- Không nhớ.
- Lên sáu?
- Cũng không nhớ.
- Thế lên mười có nhớ không?
- Mang máng là có quà.
- Ông có sợ ông già không?
- Không! - Sự thật tôi rất sợ, bố tôi nghiêm lắm.
- Ông già có hay đánh không?
- Không!
Như tích tắc đều đặn của đồng hồ, những câu hỏi vọng tới không ngừng, nhỏ nhẹ nhưng dồn dập.
- Ông sinh quán ở Thạch Phú hử?
- Phải!
- Hồi nhỏ đi học có hay bị bạn đánh không?
- Bé người cho nên cũng hay bị bắt nạt.
- Ông không phải là người Nam Bộ!... Người Nam Bộ không nói bắt nạt. ..
Ờ mà phải, tôi vừa trót lỡ không dùng chữ ăn hiếp. Đành vội chữa:
- Tôi sanh trong này nhưng cha mẹ là người Bắc cho nên nói còn lai.
Chúng gài bẫy xem tôi có thật là người Nam Bộ không. Tôi lại phải hết sức thận trọng. Đừng nói "đình" mà nói "nhà việc", đừng nói "ăn tiêu" mà nói "tiêu xài". Bọn này ngóc ngách, láu lỉnh lắm.
Đến lúc này, người tôi bắt đầu cuồng lên. Hai ngọn đèn như tăng thêm mãi sức nóng. Mồ hôi tràn trên da, tràn trên người, chảy ướt đất.
Đầu tôi ong ong, nhức nhối, trong khi tiếng chúng nó hỏi cứ nhỏ nhẻ ra vẻ thủ thỉ tâm sự, nghe mới ghét làm sao.
- Bố mẹ ông người tỉnh nào ngoài Bắc?
Tôi không trả lời.
- Ông có hay đau yếu không?
Tôi không trả lời.
- Ông có mấy anh chị em?
Các câu hỏi có vẻ dồn dập hơn. Tôi vẫn không trả lời. Tôi đang phán đoán xem chúng hỏi lăng nhăng như vậy nhằm mục đích gì. Hỏi gì lại hỏi từ lúc lên năm tuổi đến đi học có bị ăn hiếp hay không? Sao không hỏi đến các hoạt động của tôi?
À thôi! Chúng muốn dò hỏi tâm lý tôi, tìm xem tôi yêu thương, ghét, muốn, lo, buồn, thích, sợ cái gì đó thôi. Chúng tìm ra cái này rồi sẽ dùng chiến tranh tâm lý đối với tôi đây, chúng sẽ kết hợp với việc khêu gợi những đòi hỏi bức thiết của cơ thể, tình cảm tôi đây. Đúng là kiểu Mỹ. Mỹ thì Mỹ, cóc cần! Mỹ cũng không phá nổi được bộ óc của người cộng sản... Tôi sẽ luôn luôn giữ thế chủ động, tôi tự dặn tôi như vậy, phải luôn luôn chủ động, không trả lời chúng một khi chưa hiểu dụng ý của chúng, một khi chưa suy nghĩ cẩn thận. Cái thằng địch có một lời nào, một hành động nào của nó lại không có ý đồ đâu. Phải tìm cho ra ý đồ của chúng rồi chủ trương đối phó và quyết tâm hành động. Nhận cho ra ý của địch, có chủ trương đối phó và quyết tâm hành động, phải rồi, quyết tâm hành động. Ba cái này gắn liền với nhau mà giải quyết, giải quyết cho thật nhanh, gọn... Còn phương châm là gì? Là thế này nhé: mày hỏi là quyền của mày, tao nói hay không là quyền của tao. Tao nói hay im, hoàn toàn do tao định đoạt, mày không dùng bất cứ cách nào buộc tao nói theo ý mày được đâu.
Nghĩ như thế, tôi bỏ tay khỏi tường định đứng thẳng lên. Chúng liền hét "cúi như cũ!".
Đứng đèn thế này, thần kinh đã bàng hoàng rối loạn, khó lòng tự chủ được, chúng lại cứ hỏi liên miên, làm cho tai không được yên, óc không được nghỉ và miệng thì nói hoài, nói hoài, có khi tưởng mình sắp đâm ra mê sảng, lú lẫn đến nơi. Tôi hơi lo: "Chúng làm mãi, nhỡ mình mê lú đi, buột ra cái gì thì chết. Phải có cách đề phòng mới được". Và tôi luôn mồm nhẩm hai chữ "không biết", "không biết"... để nếu tôi mê đi, cái mồm cũng sẽ quen mà thốt ra như máy: "Không biết", "không biết"...
- Đi học thường hay xếp hạng mấy trong lớp?
- Không biết!
- Bè bạn thời nhỏ thế nào?
- Không biết!
- Có hay đánh lộn không?
- Không biết!
Hoặc là im. Hoặc là "không biết. Nhưng chúng cứ lẵng nhẵng hỏi, không tức, không nản...
Nhóm thằng Ân lục tục đến thay nhóm thằng An. Hết một ca ba giờ rồi. Ba giờ sao lâu quá xá vậy? Mà chúng không cho tôi nghỉ, không cho tôi đổi chân là làm sao? Hai ngọn đèn cháy đùng đùng như hai lò lửa sau gáy. Đầu tôi choáng váng. Có khi cả thần xác lâng lâng, tựa hồ bập bềnh, lơ lửng trên mây, dưới gió vậy. Đầu gối lỏng dần, chân tê dại, lưng cứng đờ và mắt tủa ra từng quầng sáng gay gắt.
Chúng tiếp tục hỏi, không ngừng một phút:
- Trên đời ông thích nhất cái gì?
- Chẳng biết nữa.
- Có uống rượu không?
- Không!
- Có hút thuốc không?
- Không!
- Có thích ca hát không?
- Không!
Phải nhận rằng, trong cơn chịu đựng dai dẳng, căng thẳng, toàn thân ê ẩm, rã rời, chỉ muốn lăn kềnh ra cho quên tất cả mọi sự đau đớn, con người ta rất dễ trả lời cho xong chuyện, rất dễ buông xuôi. Cách thẩm vấn kết hợp đứng đèn này quả là thâm độc.
Nhóm thằng Lãm lại đã tới thay nhóm thằng Ân. Thế là sáu giờ liền, chúng không cho trở mình, không cho ngồi, không cho nằm, không cho ăn, không cho uống, không cho ngủ.
Hai ngọn đèn lúc này thành hai vật rất nặng đè trĩu đầu tôi xuống mà chà mà xát. Tôi cảm thấy tủy sống tôi đặc lại từng thỏi. Tôi cảm thấy óc tôi vữa ra. Hình như có hai quả núi sùm sụp trên vai tôi...
Chúng cứ đều đều hỏi:
- Ông ghét nhất cái gì?
- Tôi ghét nhất người nào hống hách hành hạ tôi. Tôi cáu, trả lời như gắt và nghe rõ tiếng chúng cười.
Chúng biết tôi nói đúng.
- Ông sợ nhất cái gì?
- Không biết sợ cái gì!
Lúc này, tôi đinh ninh là chết. Tôi cảm thấy cái chết đã kề bên, gần lắm rồi. Có những lúc lạ như vậy, con người có thể cảm thấy cái chết cụ thể như khi cảm thấy đói, mệt vậy. Tôi nghĩ: "Thôi, cố giữ vững vài giờ nữa cho thật toàn thắng. Ở trên đời này còn cái gì vẻ vang bằng chết cho sự nghiệp cách mạng. Mấy đứa con nhỏ của mình mồ côi cha thì được mình để lại cho một di sản quý: mình đã hành động đúng như một người cộng sản...".
Mồ hôi cạn từ bao giờ không biết nữa. Toàn thân tôi bây giờ khô cong. Môi giộp lên và lưỡi đưa đi đưa lại vướng ráp trong hàm. Hai ngọn đèn tựa hồ đã hút khô hết tất cả những hạch tiết nước trong người tôi. Mắt hoa, đầu ngây ngất, tôi ngỡ mình đang đứng nhờ trên chiếc cọc lung lay, hai chiếc cọc ấy xuyên dần lên ngực tôi, xuyên ngược mãi lên và sắp xuyên tới óc...
Tinh thần chịu đựng của con người thật là kỳ diệu. Tôi đã đứng dưới hai ngọn đèn một nghìn oát, đứng không đổi chân, đứng không ăn, không uống, không ngủ, đứng trong trạng thái mấp mé sự hôn mê như vậy suốt một đêm, một ngày. Mà còn nữa, đã hết đâu!
Nhóm thằng An lại đã tới. Nó vừa buông mình xuống ghế đã nói luôn:
- Ông Thịnh kìa, tóc bạc trắng cả rồi đó! Nghĩ lắm phải không? Tưởng Giới Thạch bị bắt ở Tây An có một đêm cũng bạc đầu...
Tôi đồ rằng nó nói láo để dọa tôi; nhưng ngờ đâu sau đó mấy hôm, giật mấy sợi tóc xuống xem thì ra bạc thật. Chỉ một ngày một đêm đứng đèn, tóc tôi đang đen mà trắng gần hết cả đầu!
Chúng cứ hỏi, tôi cứ đứng. Chúng thay nhóm này đến nhóm khác quần tôi, tôi cứ một mình đương đầu với tất cả. Rất lạ. Trong tôi lúc này không hề gợn qua bóng dáng vợ con, không hề lởn vởn bóng dáng một lạc thú nào, kể cả miếng ăn, miếng uống. Ngay đứa con gái, tôi rất yêu, rất thương - cháu rất ngoan, rất kháu - tôi cũng không nghĩ tới nữa. Khi cái chết đã gần ngay bên, tôi nhắm mắt lại tự nhủ: "Không mong gì hơn, chỉ mong làm được cái việc Võ Thị Sáu đã làm. Mình khuất phục là hết sức nguy hiểm, là tự mình bôi nhọ mấy chữ người cộng sản, là tự mình phủ định chân lý "chủ nghĩa Mác - Lênin bách chiến bách thắng"... Bọn chúng là cái gì? Mình không thèm đọ sức với chúng. Mình không đặt vấn đề đọ sức coi ai sẽ thắng, vì đặt vấn đề đọ sức như vậy là chưa khẳng định ý chí quyết thắng địch. Ý chí của ta là quyết thắng chúng kia mà. Phải nhớ rằng trước quân thù thế nào mình cũng là người của cách mạng... Thế nào mới xứng đáng là người của cách mạng?...".
Dần dần những câu hỏi nhỏ nhẹ tuôn ra liên tiếp trở thành một cực hình thật sự: chúng chẳng khác những nhát búa nện vào màng tai tôi, rung chuyển cả đầu óc.
- Ông nuôi vịt cho hãng thì cho vịt ăn bằng lúa gì?
- ...
- Ông ở Thạnh Phú lên Sài Gòn bằng xe gì?
- ...
- Giá hột vịt ở chợ Cầu Ông Lãnh bao nhiêu một hột?... Một chục?
- ...
Có tiếng chúng thở dài ra vẻ ngán ngẩm. Cái thở dài ấy cũng là một thứ điệu bộ, kiểu cách thôi. Tự nhiên nghe tiếng thở dài, tôi lại cảm thấy hình như chúng lắc đầu và nháy mắt với nhau. Tôi càng im.
Đã hết một đêm thứ hai. Lại hết thêm một ngày thứ hai.
Và sắp sửa hết đêm thứ ba đây!
Sao tôi lại có thể đứng lâu đến thế này được? Hai cổ chân tôi xuống máu to bằng hai cái vò rồi. ống quần tôi may khá rộng bây giờ ôm vừa khít cổ chân, chật căng. Đầu tôi quay cuồng, đảo lộn, bâng khuâng, chập chờn, nửa tỉnh, nửa mê. Chính trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê này, tôi nghĩ đến những đồng bào đã nuôi nấng, giúp đỡ tôi ngay trong lòng Sài Gòn đầy rẫy sự khủng bố, bắt bớ, chém giết, tù đày để cho tôi hoạt động cách mạng như thế nào. Tôi nhớ như in trong óc hình ảnh anh chị X, cháu Hai, cháu Ba, cháu Tư v.v... chắt chiu nuôn nấng tôi.
Chị đi chợ về bao giờ cũng có quà cho tôi; anh đi đâu về bao giờ cũng mua cho tôi vài ba tờ báo. Tôi tuy sống cô đơn, xa vợ xa con nhưng được sự đùm bọc của gia đình anh chị X, vẫn cảm thấy ấm lòng. Tôi nhớ lại từng trái bắp (3), trái mãng cầu (4), từng chùm nhãn mà chị và các cháu cho tôi ăn. Những ý nghĩ này bảo tôi phải ráng chịu đựng mọi cực hình của quân thù để bảo vệ những đồng bào đã cưu mang tôi, đã hết lòng vì cách mạng. Điều đó có một sức mạnh ràng buộc thiêng liêng vô cùng.
-----
(3) Bắp.
(4) Na.
Trong trạng thái mê mê tỉnh tỉnh này, cái chết của chị Võ Thị Sáu cũng hiện lên rất rõ trước mắt tôi. Một người bạn tôi bị tù ở Côn Đảo trong kháng chiến về đã nói cho tôi nghe chuyện Võ Thị Sáu hy sinh bất khuất. Từ đó tôi cảm phục, luôn luôn tự dặn lòng: Võ Thị Sáu tuổi đảng, tuổi đời đều kém ta, nhưng ta không mong gì hơn, chỉ mong làm được như Sáu đã làm. Tư tưởng Võ Thị Sáu, cái chết anh dũng của Võ Thị Sáu đã chiếm lĩnh đầu óc tôi. Có lúc quằn quại dưới đất chịu đòn, tôi chỉ còn thấy có hình dáng Võ Thị Sáu, hình dáng do tôi tưởng tượng ra. Cũng như chính trong lúc này, tôi đang thấy Võ Thị Sáu, rất gần, ở ngay trước mặt. Rõ ràng tôi bước theo chị và thấy con đường mát dần, mát dần. Tôi đã bước ra khỏi hai ngọn đèn bao giờ không biết và tôi lăn đùng ra đất. Bọn địch gạt bàn ghế, nhảy xổ đến. Dùi cui, gậy gộc, gót giày giáng tới tấp xuống. Chúng cho rằng tôi ngã ra như vậy là đã đến cái phút chúng dấn tới chút nữa thì có thể cưỡng được tinh thần tôi, buộc tôi phải đầu hàng, khai báo. Cho nên, đòn của chúng lúc này ác độc vô cùng.
Hai thằng xốc nách tôi lên cho đứng trở lại dưới đèn, tôi lại tự động ngã quay lơ. Năm sáu lần như thế, chúng phải giữ cho đứng. Nhưng mới giữ được một vài phút, chúng đã đẩy tôi ra:
- Đ mẹ, cái thằng cộng sản này ghê thật! Mình đứng xa xa chỉ vài ba phút đã nóng không chịu được mà nó đứng những hai ngay ba đêm, ở ngay bên dưới, ghê thật!
Sau chúng kê một cái ghế để tôi ngồi. Tôi ngồi cũng ngã. Chúng phải ngồi cạnh giữ tôi. Nhưng như thế chúng lại không chịu ánh đèn. Loay hoay mãi, chúng đành kéo ghế tôi ra xa khỏi hai ngọn đèn vậy. Lúc này, thằng An ngồi trước mặt tôi, hỏi tiếp như cũ. Tôi không trả lời, nó liền bất ngờ giẫm mạnh vào mấy ngón chân bị giập của tôi. Nó đã để ý thấy những chỗ nào nên phạm tới ở người tôi. Tôi giật nẩy, choáng lên như bị chém rụng mất một nửa người. Máu chảy ra các khe ngón chân âm ấm. Rồi cứ thế, nó hỏi một câu, tôi không trả lời, nó lại giẫm. Tôi đau buốt nhưng nghiến răng chịu. Mày giẫm mặc bà mày, tao không nói! Bây giờ nó đã hỏi xen đến cơ sở, tổ chức, công tác của tôi...
Suốt một ngày thứ tư, chúng hành hạ tôi như thế. Hỏi và giẫm, hỏi và giẫm. Nhìn xuống mấy đầu ngón chân thấy nhòe nhoẹt, đỏ lòm, tưởng chừng nát nhừ cả rồi. Chiều đến, sau bốn hôm bắt tôi nhịn hoàn toàn, chúng bê lên một ít cơm và ít nước. Tôi không đụng qua một hột. Tôi nghĩ: "Đằng nào cũng chết tới nơi, ăn uống làm gì cho kéo dài đau đớn". Lúc này, tôi thấy chết là sướng nhất, nhẹ nhàng nhất.
Nhưng đến đêm, trong khi chúng đánh, tôi lại chợt nghĩ ra, thấy chủ trương nhịn vừa rồi là sai. Đó phải chăng là tư tưởng tiêu cực, là một hình thức tự sát, là một cách trốn tránh sự đau khổ. Rõ hèn nhát! Chẳng phải tôi vẫn thường tâm niệm rằng nếu bị bắt tôi sẽ cố chứng minh bằng hành động cái chân lý "chủ nghĩa Mác - Lênin ở đâu cũng đúng” đó sao? Khi sa lưới quân thù, người cộng sản đâu phải chỉ có mỗi một nhiệm vụ là bảo toàn cơ sở, tổ chức và những bí mật của cách mạng. Ngay trong lúc bị giam cầm, người cộng sản cũng phải thực hiện nhiệm vụ bảo vệ tính chất bách chiến bách thắng của chủ nghĩa Mác - Lênin, phải thực hiện nhiệm vụ đấu tranh chống mọi sự bất công, áp bức, bóc lột. Tôi nhịn để chết thì có khác nào tôi tiêu cực tự sát để thoái thác nhiệm vụ đó.
Suy tính như vậy, sáng hôm sau tôi ăn. Đau cũng cố nuốt, cố ăn. Thằng An nói, ra vẻ sành sỏi:
- Chúng tôi biết, các ông ghê lắm. Hôm qua ông nhịn là để đấu tranh, hôm nay ông ăn cũng là để đấu tranh!
"Mày mà thấy tao ăn là để đấu tranh thì tao đạt quá, tao hả quá. Cho chúng mày mở mắt ra, tao không thua chúng mày đâu!" Vừa ăn tôi vừa nhủ thầm, bụng cũng thấy khoái.
Cả ngày và tối hôm đó, chúng tiếp tục hỏi, tiếp tục đánh. Tôi tiếp tục im. Tôi lăn xuống đất, chúng lại đặt lên ghế, lại tiếp tục đánh mãi. Đến sáng ngày thứ sáu của đợt này, tôi ngã vật ra, hoàn toàn bất tỉnh...
Lại nằm liệt một chiều suốt một tuần liền dưới phòng giam. Ăn nằm, ỉa nằm, đái nằm... mọi thứ đều là nằm tại một chỗ...
***
Sau đợt đứng đèn thứ nhất, kẻ địch "tẩm bổ" cho đồng chí Nguyễn Đức Thuận mau lại sức để đánh tiếp truy hỏi cho ra thật nhanh những cơ sở cách mạng.
Một chiều, đồng chí Thuận và anh K. (5)lợi dụng lúc cùng ra bể nước rửa bát, trao đổi tình hình. Anh K. khuyên đồng chí Thuận nhận "trong kháng chiến có vào thanh niên, có làm liên lạc" để cho chúng lập được hồ sơ, còn nguyên tắc phải tuyệt đối bảo vệ bí mật của Đảng, bảo vệ cơ sở, bảo vệ đồng chí, cần sống để trở về hoạt động.
-----
(5) Một chiến sĩ cách mạng, bạn rất thân của đồng chí Thuận, bị bắt, bị địch tra tấn chết đi sống lại nhưng không khai, bảo toàn được cơ sở cách mạng.
Suốt đêm ấy, đồng chí Thuận tính toán phân vân. Sáng sau, khi địch căn vặn, đồng chí chỉ nhận "hồi 1945, 1946, có vào thanh niên cứu quốc, trước làm bình dân học vụ, sau làm liên lạc..." Mặc dầu không khai thêm điều gì và ngay những điều đã khai cũng không đúng sự thật, nhưng cả ngày và đêm đó đồng chí Thuận đã tự phê phán nghiêm khắc việc làm đó, coi đó là biểu hiện của sự đầu hàng, khuất phục trước quân thù, nuôi ảo tưởng ở quân thù, ranh giới địch ta chưa dứt khoát, bỏ nhiệm vụ đấu tranh hiện tại, yếu đuối, non kém, không bảo toàn khí tiết... Đó là một sai lầm, ghi lại để răn mình suốt đời. Suốt đêm đó đồng chí không hề chợp mắt, tự phê phán và chuẩn bị tư tưởng bước vào đợt đấu tranh ác liệt sắp tới...
Không phải đợi lâu, đợt đứng đèn thứ hai đến ngay sáng hôm sau. Qua một đêm tự phê bình, tôi cảm thấy bình tĩnh. Vừa vào phòng điều tra, liếc xem cung cách của chúng, tôi biết ngay lần này lại món đứng đèn. Nhưng hai cái bóng đèn hôm nay sao mà to vậy? To quá! Nhìn hai bóng đèn to quá cỡ, tôi lẳng lặng đứng vào bên tường, không cần để chúng phải khiến. Tôi thầm nhủ: "Kỳ này tao sẽ đứng lâu hơn kỳ trước cho chúng mày biết tay. Chúng mày đừng tưởng tao đã dao động và đầu hàng chúng mày đâu!".
Với cái đau, có ai lại nói rằng quen được bao giờ, tôi nghiệm thấy như thế. Da thịt con người ta bị chạm đến là đau, lần nào cũng giống lần nào, cái thuyết "dạn đòn" không đứng vững đâu. Nhưng một khi con người đã chuẩn bị tinh thần chịu đựng thì cái đau cơ hồ thấy có bớt đi thật và nhất là nó không làm cho người ta sợ nữa.
Lần này, những cảm giác đau đớn của lần đứng đèn trước trở lại, đủ hết, duy chỉ có điều là ghê gớm gấp bội. Tôi phải đứng dưới hai bóng đèn, mỗi bóng mạnh một nghìn oát.
Và tôi đã đứng như thế ba ngày, ba đêm liền, lâu hơn đợt trước, đợt trước chỉ có hai ngày, ba đêm. Ba ngày, ba đêm hoàn toàn không ăn, không uống. Ba ngày, ba đêm hoàn toàn không nằm, không ngồi. Ba ngày, ba đêm thần kinh bị các câu hỏi liên tiếp, dồn dập tới rỉa rói...
Rồi cuối cùng, hết sức, tôi lại lăn đùng ra đất. Chúng lại xúm vào đánh, đá. Tôi lại ngất đi...
Khi tỉnh dậy, tôi thấy mình ngồi trong một chiếc ghế xa lông. Bọn chúng đang túm tụm tán các thứ chuyện chơi gái, nhậu nhẹt ở gần đấy.
- Kìa, tỉnh rồi hả, ông Thịnh? Này, chúng tôi có vợ con kè kè ngay bên mà vẫn phải có xẩm, có gái tiêu khiển thêm, ông không vợ chắc nẫu lắm đấy nhỉ?
Tôi im lặng.
- Phở Bắc vào đây đánh bại hủ tiếu mất rồi. Phở ở Sài Gòn tiệm nào ngon, ông Thịnh?
- Tôi không ở Sài Gòn tôi không biết!
- Thế sao biết cắt áo ở tiệm Nôva?
Chúng đã vạch cổ áo tôi xem cái nhãn Nôva ở đó. Nôva là một tiệm may áo sơ mi có tiếng ở Sài Gòn.
- Tôi mua vải ở chợ, hỏi thăm, người ta chỉ.
Chúng hỏi nhiều câu bâng quơ có liên quan đến phố xá, sinh hoạt, thói quen của Sài Gòn v.v... cố lừa tôi lòi ra rằng tôi thông thạo Sài Gòn. Nhưng lan man mãi cũng chẳng moi được gì ở tôi. Thằng Lãm đứng đầu một nhóm, cáu quá, sừng sộ dọa:
- Ông không chịu khai, được! Mai chúng tôi sẽ đưa ông ra Sở thú cho đồng bào đấu tố ông. Người ta sẽ xẻo thịt ông, sẽ quẳng ông vào cho cọp xé.
Tôi nghĩ: "Cố nội mày cũng không dám đưa tao ra trước đồng bào. Mày đưa tao ra càng tốt. Tao sẽ có nhân dân bao che mà cái mặt hung bạo của chúng mày sẽ trơ trụi ra ở đấy!".
Chúng bắt đầu xoay sang lải nhải nói xấu, xuyên tạc tình hình miền Bắc. Rồi ca ngợi tô son vẽ phấn cho chế độ của chúng. Những là "bằng ngoại giao mà giành độc lập", những là "có quốc hội lập hiến", những là "được Hoa Kỳ và bao nhiêu nước thừa nhận...". Tôi cứ nín thinh nhưng trong bụng lại vui mừng: "Thế là tinh thần của tao đã đập bẹp được ý chí của tụi bay định dùng bạo lực để thắng tao. Tụi bay phải chuyển hướng rồi. Bây giờ tụi bay quay sang nói xấu Đảng và miền Bắc, định đánh vào danh dự tao à? Đừng hòng!".
Ngày thứ năm của đợt đứng đèn này là vào ca thằng Ân, nó ngồi ở bàn lấy bút ký vào một tờ giấy rồi chìa cho tôi, hỏi:
- Chữ gì đây?
Tôi nhìn thấy nó bắt chước chữ ký của Hồ Chủ tịch. Nhưng tôi đáp:
- Cái chữ trong tay ông viết ra!
Thằng Ân trắng mặt lại, cười khẩy:
- Giỏi, giỏi đấy! Khen cho là lanh! Chữ trong tay ông viết ra... Chữ trong tay ông viết ra... Vừa nói nó vừa đi men bàn đến đè tôi ra đánh.
Thằng này tinh vi, thâm hiểm lắm. Nếu tôi không tỉnh táo mà trả lời:
"Đó là chữ ký của Hồ Chủ tịch" thì hóa ra vô tình tôi đã nhìn nó ở cái thế của lãnh tụ. Và nó đánh giá tinh thần tôi là hoang mang, không bình tĩnh. Đằng này tôi nói "Chữ trong tay ông viết ra" thì mặc xác nó, nó muốn viết nhăng viết cuội gì thây kệ nó chứ.
Thế là hết cách rồi. Sang ngày thứ sáu, chúng nắm lấy giấy thông hành và bằng lái xe của tôi để hỏi. Chúng coi hai thứ này là hai tang vật nguy hiểm cho tôi cho nên chúng dành lại sau cùng. Hơn nữa, thoạt đầu chúng tưởng rằng bạo lực có thể đánh thắng ngay được tôi, chẳng cần với đến tang vật.
Giấy thông hành và bằng lái xe đều do cơ sở lấy cho. Mấy bữa qua, chúng đã hỏi tới nhưng tôi im không nói. Bây giờ ngồi đối diện chúng, chúng chỉ hỏi có việc ấy, không nói không xong. Nói thế nào thì lại rất bí. Không nói, chúng đánh càng dữ. Tôi lúng túng quá, một mặt cứ ỳ cho chúng đánh, mặt khác cố moi óc kiếm câu trả lời. Cuối cùng, lóe ra một ý:
- Tôi ở sâu trong cánh đồng, không có giấy thông hành, không đi đâu được, rất buồn. Tôi tìm một ông trong Hội đồng hương chánh biếu ông ấy hai ngàn đồng rồi năn nỉ ông ấy lấy giúp cho.
Chúng giơ tay đánh liền:
- Bị bắt rồi còn toan phá hoại, chia rẽ nội bộ chúng tôi!
Nhưng kiếm được câu trả lời tốt, tôi cứ trước sau như thế nói. Còn bằng lái xe? Tôi khai là trường Văn Tân cấp. Chúng nói chúng đã điều tra rồi, trường Văn Tân bảo không hề cấp. Tôi cãi: "Bây giờ người ta nói thế nào là tùy ở người ta". Chúng lại hỏi: "Ai dạy?". Tôi đáp: "Thày Tư". Chúng dồn: "Thầy Tư tên gì?". Tôi nói: "Chỉ biết thứ, không biết tên!". Trong Nam kêu nhau bằng thứ, không kêu nhau bằng tên, thày Tư có hàng nghìn, hàng vạn. Và ở Văn Tân có ai là thày Tư hay không tôi cũng chẳng biết. Tôi chỉ biết trường dạy lái xe Văn Tân qua sự quảng cáo trên báo mà thôi.
Hai quân bài tủ chúng dành đến phút cuối cùng mới xì ra cũng chẳng đem lại tích sự gì.
Một thằng đứng ở ngoài thò mặt vào, ngoẹo đầu đặt lên cánh tay giơ theo mép cửa - bọn tình báo này sính học đòi lối "yêng hùng" Mỹ, điệu bộ kiểu cách, lố bịch lắm kia - hất hàm hỏi:
- Ông có biết Lam Sơn không?
- Tôi không biết.
- Thế a! Vậy sẽ cho ông biết nhá! Nó tròn xoe mắt, ra vẻ ngây thơ rồi huýt sáo miệng chạy đi. Tôi nghĩ: "Chúng mày định đưa thằng Lam Sơn lên đây đối chất tao để uy hiếp tao, tao sẽ dùng uy quyền của cách mạng đè bẹp nó, không cho nó ló mòi phản động ra được cho mà xem".
Lát sau, thằng tình báo thích giả đò hồn nhiên, phóng khoáng kia trở lại. Nó lại ngoẹo đầu nhún chân, chìa tay ra cửa, theo lối chào ở trên sân khấu. Một cái mặt thiết bì, mắt lé thò vào: thằng Lam Sơn.
Tôi dồn hết sức cố đứng thẳng lên, một tay chống vào bàn, một tay chĩa vào giữa mặt nó, quắc mắt nói:
- Bây giờ tao mới biết mày. Tao nghĩ rằng mày cũng có vợ có con, mày cũng muốn sống thế mà mày lại đi làm cái điều khốn nạn vô nhân thì nhất định đời mày sẽ không trọn vẹn mà vợ con mày cũng sẽ đau khổ vì mày!
Lúc đó tướng tôi dữ tợn thế nào không biết, chỉ thấy thằng Lam Sơn xám ngoét cả mặt lại. Thằng tình báo chán cho cái thớ của thằng Lam Sơn quá, bèn nắm vai nó đẩy ra rồi đóng sầm cửa lại. Tiết mục đánh lại bắt đầu. Tôi cứ nằm ôm đầu cho chúng đánh, trong lòng hả hê. Thế ra ngay ở trong tù, uy thế cách mạng vẫn trấn áp được những thằng phản bội.
Đến chiều, bọn thằng Di tự nhiên dịu giọng bảo tôi:
- Ông gan lì lắm! Ông không chịu khai gì hết, mặc dù mọi cái đều nằm ở trong đầu ông kia kìa. Bây giờ chúng tôi buộc phải nhẫn tâm dùng đến một thứ rất kinh khủng để bửa óc ông ra mà lấy những cái đó.
"Mày nói dóc! Bửa óc tao ra thì tao chết rồi còn lấy được cái gì nữa. Lại bịp!". Tôi nghĩ như vậy tuy chưa hiểu chúng định làm cái gì.
Nó nói tiếp:
- Đó là cái máy "biết sự thật" của Hoa Kỳ. Ông không nói kệ ông, cái máy ấy lắp vào ông, tự nó, nó khắc nói thay ông.
Chúng tán dương cái máy một chập. Nào tinh vi, hiệu nghiệm, nào hiện đại, tối tân. Ai giả, ai thật biết hết. Ai nghĩ gì trong đầu cũng biết hết. Cuối cùng chúng vờ như ái ngại hộ tôi:
- Nhưng đã phải dùng đến cái máy ấy thì nếu không chết, người ông cũng chẳng ra cái gì nữa đâu. Thân thể ông sẽ bị tàn phế, lưng còng mà tay thì run rẩy suốt đời, cầm cái tăm cũng không nổi... Nào, nghĩ kỹ đi, tự mình nói hay để cho cái máy nó nói...
Tôi có nghe loáng thoáng đến cái máy này. Đâu như nhiều người khi bị chúng dọa bằng cái máy này đã sợ. Riêng tôi, tôi không tin cái máy này tài tình đến thế. Theo tôi, không có kỹ thuật, máy móc hiện đại nào lại bắt được người cộng sản nói ra những điều bí mật, một khi người ấy quyết chết để giữ gìn những điều ấy. Do đó tôi nói:
- Các ông dùng máy gì cũng được. Các ông đánh chết tôi cũng vậy thôi. Máy nào cũng chẳng hành hạ được bằng các ông đã hành hạ tôi hơn một tháng nay đâu.
Tôi nói có lý chăng - máy nào tra tấn, đày ải tôi ghê rợn được bằng chúng nó - mà sau đó không thấy chúng đem cái máy ra điều tra tôi? Sự thật là bọn chúng đã nản lắm. Chúng biết tôi gan lì thế nào rồi, chúng biết được tinh thần quyết chết của tôi rồi.
Và thực tế cái máy này cũng không có tác dụng như chúng nói.
Sẩm chiều ngày thứ chín này, chúng trói tôi lại, dắt ra giữa phòng, chỉ vào hai miếng vỏ sầu riêng:
- Quỳ xuống!
Bọn chúng đứng đầy cả ở chung quanh, chờ đợi. Đây là phép cuối cùng của chúng.
Tôi đáp rất thong thả, dõng dạc, dằn từng tiếng:
- Không biết quỳ!
Như theo một lời hô, tất cả chúng nó nhảy bổ vào quật tôi ra đất. Rồi chúng đấm, đá, cào cấu, cắn xé, bóp cổ. Chúng càng đánh càng gầm rít, tôi càng thấy chúng thất bại, càng thấy chúng lép vế, thấp hèn. Đó là một trận đòn điên của một lũ người - thú có bạo lực trong tay tự cảm thấy rõ rằng mình đang thua kém. Trận đòn này đánh dấu một thắng lợi mới nữa của tôi. Nó cũng chấm hết cái đợt đứng đèn thứ hai kéo dài đúng chín ngày chín đêm, gần gấp đôi đợt trước. Nó cũng đánh dấu hết giai đoạn "máu" ở P42.
Biết tôi không bao giờ khuất phục - mà cũng không còn cách nào khác hành hạ tôi nữa - bọn chúng quay ra định làm nhục tôi. Chúng bắt tôi quỳ trước mặt chúng. Nhưng chúng lầm. Người cộng sản ai biết cúi đầu, quỳ gối bao giờ!
Hơn một tháng ròng, hai thằng quan thầy Mỹ ngày hai buổi đến mách nước cho bọn đầu sỏ Ngô Đình Nhu, Trần Kim Tuyến, Nguyễn Ngọc Lễ, thiếu tá Nhân nghiên cứu cách tra tấn, khai thác tôi. Bọn này lại ngày hai buổi trực tiếp điều khiển lũ thằng An, Ân, Lãm v.v... quần tôi. Chúng đã dùng mọi thủ đoạn, mọi biện pháp, nào là mua chuộc, dụ dỗ về quyền lợi vật chất, địa vị, gái đẹp, nào là dùng vũ lực đánh thật mạnh, thật ác liệt vào thân thể tôi, nào là chiến tranh tâm lý, nào là khoa học kỹ thuật hiện đại, kết hợp kỹ thuật thẩm vấn liên hồi với kỹ thuật tra tấn đứng đèn làm rối loạn thần kinh, nào là tác động tinh thần cao độ về cái chết... Nhưng chúng vẫn không khai thác được gì ở tôi, vẫn không lập nổi hồ sơ của tôi, vẫn không tạo ra được một cớ nào để buộc tội tôi làm án. Rồi, sau đó tôi được biết thêm, cả những thằng tướng chóp bu trong ngành công an tình báo của chúng như bọn Nguyễn Ngọc Lễ, Trần Kim Tuyến cũng đã phải dẫn xác đến dự một vài buổi thẩm vấn tôi trong hai đợt đứng đèn. Nhưng hồ sơ của tôi, chúng chỉ hạ được mấy chữ lèo tèo: "Tên: Phạm Văn Thịnh. Bố mẹ: chết. Vợ con: không. Nghề nghiệp: chăn vịt hãng. Đầu kháng chiến, tham gia thanh niên cứu quốc, làm liên lạc...".
Hồ sơ ấy cho đến khi tôi thoát khỏi nhà tù của chúng, cũng chỉ vẻn vẹn có ngần ấy, không được một nửa chữ nào điền thêm. Chúng buộc phải bỏ tù tôi, không án...